Những ngày cuối tháng Năm, tôi đến thăm ông (Nhà báo Thái Duy - Trần Đình Vân). Căn nhà nằm gọn trong hẻn số 8 Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Năm 2023 này, thiếu hai tuổi thì ông tròn trăm tuổi. Cầm tờ báo trên tay ông bảo: Báo in đọc có cái thú của nó, ông vẫn quan tâm đến thời sự và những hoạt động của báo chí nước nhà, và còn rất tâm huyết với nghề.
Nhà báo Thái Duy
Nhà báo Thái Duy (ngoài cùng bên phải) trong một lần được gặp Bác Hồ.
Ông bảo: tôi mê viết báo từ bé, từ lúc tôi còn trẻ tôi đã viết cho tờ Cứu quốc rồi, tôi gửi 4, 5 bài báo cũng không được đăng, nhưng tôi vẫn gửi bài, rồi ông Nam Cao nhận xét chân thành: bài của cậu viết nhạt quá. Rồi ông cười sảng khoái. Hồi đó, ông Nam Cao là tổ trưởng tổ phóng sự của báo Cứu Quốc. Sau đó ông ấy bảo phải lấy cậu thôi, không ai kiên trì như thế. Nam Cao là người thầy của tôi. Thời làm báo Cứu quốc gian khổ quá, không có gạo ăn phải ăn đỗ và thức ăn độn là bình thường. Trên đường tham gia kháng chiến, chàng thanh niên Trần Duy Tấn (Thái Duy, Trần Đình Vân là bút danh sau này) quê Bắc Giang được tuyển vào Báo Cứu Quốc của Mặt trận Việt Minh, tờ nhật báo lớn nhất, ảnh hưởng sâu rộng trong cả nước hồi bấy giờ. Tuổi làm báo của ông được tính từ năm 1949, đến nay có 75 năm cầm bút, từ một phóng viên trẻ đến một nhà văn, nhà báo hàng đầu. Với bút danh Thái Duy khi viết báo, Trần Đình Vân khi viết văn, những tác phẩm của ông không chỉ tạo nên những chuyển biến xã hội tích cực trong nước mà còn có tiếng vang xa trên trường quốc tế. Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương năm 1959, cả nước đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Khởi đầu là việc mở đường Trường Sơn năm 1959, là Phong trào Đồng khởi ở Bến Tre năm 1960, dẫn tới việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào ngày 20/12/1960 do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Mặt trận cần có tờ báo làm cơ quan ngôn luận. Báo Cứu Quốc ở Miền Bắc đã cử Tổng Biên tập Trần Phong (tên khai sinh Lê Văn Thơm, Bí danh Kỳ Phương) đi đường biển theo đoàn tàu không số; hai nhà báo Tống Đức Thắng (bí danh Tâm Trí), và Thái Duy (bí danh Trần Đình Vân) lội bộ vượt Trường Sơn 6 tháng ròng vào Tây Ninh sáng lập Báo Giải Phóng. Báo Giải Phóng ra số đầu ngày 20/12/1964, gồm 12 trang in hai màu đồng loạt xuất hiện trong vùng giải phóng, vùng ven, vào nội đô Sài Gòn và ra Hà Nội qua đường Phnôm-Pênh; thổi lên một hồi kèn giải phóng làm nức lòng quân dân cả nước, báo hiệu một cao trào cách mạng mới.Nhà báo Thái Duy SỐNG NHƯ ANH
Những năm chiến tranh cán, bộ đi chiến trường phải là những người được Đảng và tổ chức rất tin cậy. Là số phận hay duyên may, nhà báo Thái Duy được chọn là một trong ba người đầu tiên sáng lập Báo Giải phóng. Đó là niềm vinh dự, tự hào không phải nhà báo nào cũng có được. Nhưng điều trước hết, chính ông đã tự nguyện chấp nhận đi vào nơi gian khổ hy sinh. Và một sự tin tưởng, một cơ may nữa đến với ông: Tháng 3/1965, Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng Miền Nam Việt Nam được tổ chức tại căn cứ Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Chị Phan Thị Quyên, vợ Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, lúc này đã tham gia biệt động, là đại biểu. Nhà báo Thái Duy được giao nhiệm vụ gặp và ghi chép lại những chuyện kể của chị Quyên về anh Trỗi, hạn trong 15 ngày phải xong. Những ngày đầu còn được trọn vẹn. Sau chị Quyên bị hết đoàn này đến đoàn khác kéo đi, hai chú cháu phải làm việc tranh thủ. Vậy mà đúng hạn, cuốn sách đã hoàn thành, được gửi ngay ra Bắc, được Bác Hồ xem và khen ngợi. Từ cái tên ban đầu là “Những lần gặp gỡ cuối cùng”, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đổi tên thành “Sống như Anh”, được cho đăng nhiều kỳ trên các báo và xuất bản lần đầu ở NXB Văn học tháng 7/1965 ba trăm linh hai nghìn bản, có lời Bác Hồ đề tựa, sau đó được tái bản lên tục lên tới hàng triệu bản. Cho đến nay, chưa có cuốn sách nào ở Việt Nam vượt qua kỷ lục đó. Sống như Anh đã tạo ra một làn sóng mạnh mẽ trong cả nước dấy lên phong trào noi gương Anh Trỗi thi đua sản xuất và diệt giặc. Lời giới thiệu của NXB Văn học đánh giá: “Sống như Anh là một tập tư liệu rất quý. Nhưng không chỉ có giá trị về tư liệu. Sống như anh còn là một tác phẩm văn học lớn. Qua tâm hồn trong trẻo và tràn ngập yêu thương của người vợ trẻ, qua ngòi bút trung thực và tế nhị của người ghi, chúng ta thấy hiện lên hình ảnh rất sinh động của anh hùng Nguyễn Văn Trỗi và của cả một tập thể anh hùng, cả một dân tộc anh hùng”. Quả vậy, Sống như Anh là một tác phẩm lớn không chỉ vì đối tượng phản ánh của nó rất vĩ đại mà lao động nghệ thuật của tác giả cũng rất tinh diệu, công phu. Cộng sản, Việt cộng hồi ấy bị kẻ địch tuyên truyền như những kẻ không tim, nhưng anh Trỗi, cứng cỏi, lẫm liệt trước kẻ thù bao nhiêu, lại tràn ngập yêu thương trước nhân dân, trước người vợ trẻ của mình bấy nhiêu. Những chi tiết săn sóc bé Dân, cuống quýt khi chị Quyên ốm, xách nước cho chị Quyên tắm vì lo bậc thềm quá cao, việc giật phăng băng bịt mắt và câu nói cuối cùng “Không, phải để tôi được nhìn mảnh đất này, mảnh đất thân yêu của tôi” đã làm xúc động cả thế giới, thay đổi cách nhìn về người cộng sản. Người đọc cũng thấy được cả một nhân dân gan góc anh hùng qua chị, chị X và những người tù; qua việc bà con đi làm lễ cầu siêu cho anh Trỗi ngay giữa đô thành Sài Gòn, - trước họng súng của binh lính và cảnh sát.
KHOÁN CHUI HAY LÀ CHẾT
Đó là tên cuốn sách của Nhà báo Thái Duy được NXB Trẻ xuất bản năm 2013, tập hợp những bài báo đăng trên Báo Đại Đoàn kết: khoảng thời gian từ trước khoán 100 (1981) đến khoán 10 (1988). “Khoán chui hay là chết" là câu , nói, là quyết tâm của người nông dân Việt Nam trước thực trạng có làm hoặc làm giả với hậu quả là không có năng suất, không có ăn kéo dài trong các hợp tác xã với hình thức khoán việc, ăn chia theo công điểm.
Thái Duy là nhà báo luôn trung thành với lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân; là người luôn bám sát thực tiễn. Chính vì bám sát thực tiễn nên ông sớm phát hiện được những cái mới và những bất ổn trong cuộc sống. Ở Miền Bắc, năm 1961, mức bình quân lương thực đầu người là 24kg/tháng, đến năm 1965 giảm chỉ còn 14kg/tháng. Đã thế, hạt gạo còn chia ba, chia bốn cho các chiến trường A (Miền Bắc), B (Miền Nam), C (Lào), K (Căm-puchia). Đói ăn là điều mà thời nay, thời Việt Nam là nước xuất khẩu gạo nhất, nhì thế giới không thể hiểu được nhưng đói quay đói quắt đã không chỉ năm 1945 mà kéo dài suốt cả mấy thập kỷ, cho đến hết những năm 80. Sau 1975, do lạc hậu của cơ chế, do bị cấm vận ngặt nghèo, mỗi năm nước ta phải nhập khẩu hai triệu tấn lương thực. Từ chiến trường trở lại Miền Bắc, Thái Duy dấn thân vào mặt trận nông nghiệp, nông thôn. Điều ông nhìn thấy đầu tiên là mảnh ruộng 5%, cũng đồng đất ấy, con người ấy mà năng suất thì cao hơn hẳn ruộng hợp tác xã. Và tất nhiên, đó là điều ai cũng nhìn thấy như ai cũng nghe thấy câu ca đầy oán thán: Một người làm việc bằng hai/ Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe. Nhưng vào những năm 60, 70 hợp tác xã gắn liền với công hữu, với CNXH, không ai dám động đến, vì như thế là đi ngược lại đường lối của Đảng, với CNXH. Nhìn thấy người dân đói, Thái Duy thấy như chính mình bị đói, bị đối xử bất công. Ông thốt lên câu hỏi: Tại sao nông dân lại chịu khổ lâu như vậy để có CNXH? Ông viết báo không phải bằng mực, mà bằng máu rỉ ra từ trái tim: “Đất nước đã được giải phóng nhưng nông dân chiếm gần 80% dân số vẫn chưa được giải phóng là sự thật đau xót”. Ông ủng hộ khoán lén, khoán chui từ sớm. Đặc biệt, lòng tin về khoán mới được củng cố từ Hội nghị Trung ương 6 khóa IV, hội nghị theo ông “đã ra một nghị quyết lịch sử”, Nghị quyết 20 ngày 20/9/1979. Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng sự thật và tha thiết với lợi ích của nhân dân, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã thấy nhiều chủ trương chính sách của Đảng là chủ quan, nóng vội, thiếu căn cứ thực tiễn; thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế; cho phép các xã viên “mượn đất" sản xuất, tức là trở lại mục tiêu ban đầu của cách mạng: Trả ruộng đất cho dân cày.
Trong một tờ báo, vai trò của Tổng Biên tập là quyết định. Nhà báo Lê Điền, Tổng Biên tập Báo Đại Đoàn kết là chỗ dựa cho các phóng viên nhiệt huyết như Thái Duy, Lê Văn Ba.. tung hoành trên các mặt trận của mình; đồng thời, các cây bút tài năng ấy đã làm cho tờ báo và Tổng Biên tập trụ vững trước sóng gió dự luận, trước các thế lực chính trị bất đồng quan điểm; nâng cao vị thế và uy tín báo Đại đoàn kết nói riêng, báo chí nói chung trước Đảng, trước nhân dân. Họ thật sự là những anh hùng của thời kỳ Đổi mới. Nhà báo Thái Duy đã có hàng trăm bài báo như Một cuộc cách mạng, Ngọn gió Hải Phòng, Phá thế độc canh ở Thái Bình, Cơ chế mới, con người mới, Khoán chui hay là chết... Tác phẩm báo chí của Thái Duy không chỉ là những dẫn chứng sắc bén từ thực tế, rực lửa chiến đấu, can đảm hy sinh mà còn có tính lý luận. Những bài báo đó không chỉ phát hiện mô hình, cổ vũ cho sự thắng lợi của cái mới trong thực tiễn mà còn cho thấy tâm huyết, tầm nhìn sáng suốt, công lao của các đồng chí lãnh đạo Đảng đối với nông dân, nông nghiệp như Lê Duẩn, Võ Chí Công, Lê Thanh Nghị và nhất là đồng chí Trường Chinh, người đã từng phê phán Vĩnh Phúc thời kỳ đầu, sau này trở thành một ngọn cờ Đổi mới, Đánh giá về đóng góp của nhà báo Thái Duy, nhà báo Hữu Thọ viết trên báo Nhân Dân số ra ngày 22/4/2013: “Cuộc đấu tranh cho chủ trương khoán sản phẩm ra đời rất quyết liệt, không chỉ quyết liệt ở cơ sở mà quyết liệt cả từ những người và cơ quan cấp cao, không chỉ trong nội bộ mà cả với ý kiến có gang có thép của một số cố vấn của Liên Xô... Những người không đồng ý khoán sản phẩm cuối cùng tung ra rất nhiều cái mũ to, cho rằng “nếu thực hiện khoán sản phẩm cuối cùng thì nên đốt sách Mác - Lênin đi", thậm chí cho rằng “thực hiện khoán sản phẩm là bỏ Đảng”. “Các bạn đồng nghiệp cùng chung lưng đấu cật trong cuộc đấu tranh này như Thái Duy, Lê Điền ở báo Đại Đoàn Kết, Hồng Giao ở tạp chí Học tập, Đình Cao ở Thông tấn xã, Đắc Hữu ở báo Hà Sơn Bình... và những đồng chí hết lòng ủng hộ sự nghiệp đổi mới nông nghiệp, ủng hộ các nhà báo như các anh Nguyễn Khánh, Minh Chương, Trần Đức Nguyên ở Văn phòng Trung ương... trong đó theo tôi thì nhà báo hăng hái xông pha trận mạc, viết nhiều nhất trong số chúng tôi chính là Thái Duy” (Chui ra chỗ sáng - Báo Nhân Dân 22/4/2013).
Bản lĩnh, đạo đức ấy được tu dưỡng từ bé trong một gia đình nền nếp, gia phong. Và chính ông và người vợ thân yêu của mình cũng xây dựng cho mình một tổ ấm hạnh phúc với triết lý sống giản dị, chân tình, tử tế, trung thực. Sống và viết như ông, nhà báo Thái Duy là cuộc đời của một con người phấn đấu không mệt mỏi, không chùn bước để "Chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tươi tốt" như lời Bác Hồ căn dặn trong Di chúc. Vinh quang của ông không thuộc về những phần thưởng, những chức vụ mà là tất cả những gì mới mẻ, tốt tươi không ngừng nẩy nở trên đất nước Việt Nam.