Người làm báo Hưng Yên

http://nguoilambaohungyen.vn


Chuyện về những “Quân bạn quốc tế ngày nào”

KỶ NIỆM 76 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22/12/1944 – 22/12/2020)

Ngày 01 tháng 10 năm 1949, Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng CNXH. Trước đó gần một năm, Thủ tướng Chu Ân Lai đã cử đặc phái viên sang Việt Nam để đề nghị quân đội Việt Nam phối hợp chiến đấu, giúp đỡ Giải phóng quân nhân dân Trung Hoa đánh quân Tưởng để giải phóng khu Ung - Long - Khâm (nay là vùng biên khu hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam). Vậy là từ tháng 4 năm 1949, quân đội Việt Nam và quân đội Trung Quốc đã triển khai chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, đánh hàng chục trận trên nhiều hướng để làm tan rã những cụm cứ điểm của tàn quân Tưởng, được nhân dân ba tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam ca ngợi là “Quân bạn quốc tế đánh phi thường ác liệt”.

111
Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Long Châu tôn vinh những cán bộ cách mạng Việt Nam

Trong cuốn hồi ký Chiến đấu trong vòng vây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp dành nhiều trang cho chiến dịch được đặt tên là Thập Vạn Đại Sơn. Cuốn hồi ký ghi lại cụ thể: “Đầu tháng Ba, quân Tưởng ở Quảng Tây tấn công hai khu Trấn Biên, Tĩnh Tây dữ dội. Một bộ phận bộ đội du kích và cơ quan hậu phương của hai khu này tạm thời chuyển qua biên giới Việt Nam. Bộ Tư lệnh biên khu Điền Quế và Đảng uỷ biên khu Việt Quế thường xuyên có quan hệ với chúng ta. Tháng 4 năm 1949, lãnh đạo phong trào du kích ở Quảng Tây giáp biên giới Đông Bắc nước ta, đề nghị quân đội Việt Nam phối hợp chiến đấu, giúp đỡ đánh quân Tưởng để giải phóng khu Ung - Long - Khâm”.

Sử sách Trung Quốc cũng ghi lại công lao của bộ đội Việt Nam, trong đó cụ thể nhất là cuốn Đệ tam đệ thất chi đội sử viết về cuộc kháng chiến của Giải phóng quân Trung Quốc và bộ đội Việt Nam tại Việt Quế nhấn mạnh: “Quân bạn quốc tế, Trung đoàn 59, Trung đoàn Lạng Sơn, Tiểu đoàn Đặng Công Lệnh, Tiểu đoàn Trần Vinh, Đại đội Bình Liêu (Hải Ninh) thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát huy tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản, phối hợp tác chiến với chi đội 3 lập công lớn, góp sức mạnh một cách vô tư, phát triển tình hữu nghị chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Công trạng sáng chói của họ, không sợ kẻ địch mạnh, không ngại khó khăn gian khổ, không tiếc xương máu sẽ mãi mãi được ghi trong sử sách đấu tranh cách mạng của nhân dân khu Thập Vạn Đại Sơn”.

Ngay sau khi mệnh lệnh được phát ra, các đơn vị tập trung chỉnh huấn tư tưởng và ráo riết chuẩn bị lên đường. Đồng chí Lê Quảng Ba, Phó tư lệnh Liên khu 1 được chỉ định là Tư lệnh chiến dịch. Đồng chí Trần Minh Giang, cán bộ của bạn làm Chính trị ủy viên. Chiến dịch được triển khai trên hai mặt trận là Khâm Châu và Long Châu. Mặt trận Khâm Châu do đồng chí Nam Long làm Chỉ huy trưởng; đồng chí Hoàng Bình, cán bộ Quân giải phóng Trung Quốc làm Phó Chỉ huy trưởng; đồng chí Đỗ Trình làm chính trị viên. Mặt trận Long Châu, do đồng chí Thanh Phong làm Chỉ huy trưởng; đồng chí Chu Huy Mân và đồng chí Hoàng Long Xuyên làm Phó Chỉ huy trưởng.

Khi quyết định giúp bạn mở chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, Bộ Tổng Tư lệnh hết sức quan tâm đến hình ảnh của bộ đội Việt Nam. Chính vì thế, trong bản Mệnh lệnh chiến dịch ngày 23/4/1949 cũng nhấn mạnh phương châm hoạt động: “Trong lúc hoạt động ở Trung Quốc cần đứng trên lập trường đoàn kết hai dân tộc, căn cứ vào lợi ích cách mạng dân chủ của hai nước mà giải quyết các vấn đề, tuyệt đối tránh “bản vị chủ nghĩa”. Lấy danh nghĩa Giải phóng quân mà hoạt động để tiện giữ bí mật. Công tác chính trị cần nêu rõ nhiệm vụ đoàn kết phấn đấu giữa hai nước Trung Quốc mới và Việt Nam mới, giữa Giải phóng quân và quân ta; nêu vinh dự của người quân nhân Việt Nam và tinh thần quốc tế của người quân nhân Việt Nam; tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân địa phương, nêu cao kỷ luật chính trị, chú trọng dân vận”.

Bộ đội ta ngày ấy viễn chinh chỉ mặc áo nâu, áo chàm và đội loại mũ đan được gọi là “mũ mõm trâu”. Dù rất cố công  nhưng tôi vẫn không thể tìm được một hiện vật nào như thế tại các bảo tàng. Chỉ nghe các cựu chiến binh từng tham gia chiến dịch kể rằng ngày đó chiếc mũ ấy được dùng phổ biến, phía vành mũ trước vểnh lên nên anh em đặt là mũ “mõm trâu”. Chính vì thế quân bạn và nhân dân bạn mới khen tặng “Giải phóng quân Việt Nam, áo màu nâu, mũ mõm trâu, đánh phi thường ác liệt…”. Khi bộ đội Việt Nam về nước, bà con bịn rịn không nỡ rời, mang đồ ăn tới tiễn, làm đồ lưu niệm tới tặng. Trong điều kiện ngôn ngữ bất đồng, thời gian ở trên đất bạn ngắn ngủi, lại hành quân liên tục, để có được những tình cảm mến thương ấy là điều không hề đơn giản. 

Bước vào tuổi 104, Đại tá Hoàng Long Xuyên, nguyên Giám đốc Công an kiêm Chỉ huy trưởng Công an Vũ trang khu tự trị Việt Bắc đón chúng tôi tại nhà riêng tại thị trấn Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Màu quân hàm xanh biên phòng tươi trên bộ quân phục cũ và đôi mắt người cựu chiến binh ánh lên niềm tự hào: “Vào trung tuần tháng 5 năm 1949, đồng chí Thanh Phong gặp tôi giao nhiệm vụ: “Có chỉ thị đặc biệt của anh Văn, mở một chiến dịch đặc biệt giúp bạn. Anh có trách nhiệm chỉ huy một mũi, lấy lực lượng của địa phương Lạng Sơn từ 2 đến 3 đại đội. Trách nhiệm của anh đánh từ mục Nam Quan xuống Bằng Tường, Thượng Thạch, Hạ Thạch, rồi đến Ninh Minh.

Bước vào chiến dịch, đầu tháng 6 năm, bộ đội Việt Nam chia thành hai hướng, vượt biên giới sang hội quân cùng bạn tại khu vực Long Châu (Quảng Tây) và khu vực Khâm Châu, Phòng Thành (Quảng Đông), Trung Quốc. Từ làng Bằng, cánh quân tham gia mặt trận Điền Quế vượt qua đường số 4 và các huyện lỵ của Lạng Sơn để đến biên giới. Bác Thân Văn Nhã, 89 tuổi, nguyên chiến sĩ tiểu đoàn 426, hiện sống tại thành phố Bắc Giang, nhớ lại: “Nắng mùa hè như nung lửa, bộ đội phải hành quân tắt rừng, vượt qua những mỏm núi cheo leo nhất để tránh tai mắt của địch. Đêm ngủ rừng, gặp mưa thì trú tạm dưới tán cây hoặc hốc núi thức chờ trời sáng. Tới những khu vực có đồn Pháp chiếm đóng, cả đoàn chuyển sang đi đêm, ngày trú tạm trong các cánh rừng để tránh bị giặc phát hiện”.

Cứ âm thầm đi như thế cho tới khi đến chân núi Thập Vạn Đại Sơn. Một hành trình vượt núi đầy chông gai trên nghìn trùng núi non hiểm trở và khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Hai đêm ba ngày gian khổ còn vẹn nguyên ký ức. Hết mưa lại nắng, hết không khí lạnh lại đến gió khô thổi ra từ muôn hướng. Quần áo khô rồi lại ướt, môi khô nẻ, mặt bạc gió sương; dứt trận sốt rừng lại phăm phăm tiến về phía trước... Ngàn bước vượt vách đá dựng đứng, ngàn bước lần xuống khe sâu suốt 1 tháng hành quân, ngày 21/6, bộ đội Việt Nam đã tới được Pắc Lầu rồi tiến vào Phù Lủng, Nà Số, hội ngộ cùng quân bạn để bàn kế hoạch tác chiến.

Phía mặt trận Long Châu, do hướng từ Cao Bằng và Lạng Sơn qua khu vực Tà Lùng và Bằng Tường, địa hình tương đối bằng phẳng nên bộ đội hành quân đỡ vất vả hơn. Trong hồi ký, Đại tướng Chu Huy Mân kể lại: “Trước khi xuất kích vượt biên giới theo thỏa thuận với Quân khu Tả Giang - Long Châu, chúng tôi cấp cho mỗi cán bộ chiến sĩ một tấm quân hiệu bằng vải màu vàng in chữ Trung Quốc màu đỏ: “Trung Quốc nhân dân giải phóng quân - 35Đ” gài trên ngực áo. Tôi nói với anh em: Từ giờ phút này trở đi, chúng ta chiến đấu trên chiến trường Trung Quốc với danh nghĩa Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, các đồng chí phải làm đúng 10 lời thề và 12 điều răn của Bác Hồ”.

Năm 2009, trong cuộc gặp gỡ các cựu chiến binh Thập Vạn Đại Sơn sau 60 năm giúp bạn, nhạc sĩ Trọng Loan, tác giả của Lời ca dâng Bác và Người Châu Yên em bắn máy bay, một trong những văn nghệ sĩ theo đoàn quân viễn chinh ngày ấy vẫn tâm đắc: “Vẫn là sự tài tình của các chiến sĩ Việt Nam, cái tài tình ấy thể hiện trong tinh thần chiến đấu anh dũng, cái tài tình ấy là kỉ luật nghiêm minh và sự khéo léo trong công tác dân vận. Không chỉ nhân dân Trung Quốc quí mến bộ đội Hồ Chí Minh, ngay cả những chiến sĩ Trung Quốc chiến đấu bên cạnh ta cũng rất khâm phục.

Trên đường tìm lại chiến công xưa, chúng tôi bắt gặp tại Bảo tàng Hồ Chí Minh tại huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây có một bảng ảnh tôn vinh những nhà cách mạng Việt Nam từng hoạt động trên khu vực Long Châu, trong đó, có ghi danh đại tướng Chu Huy Mân và Đại tá Hoàng Long Xuyên, hai người chỉ huy hai cánh quân giải phóng khu vực này. Thời điểm đó, Long Châu là một trong 14 khu quân sự của Quốc dân đảng tại tỉnh Quảng Tây do hai trung đoàn bảo an, một số đội cảnh vệ, tuần sát, dân đoàn ở các huyện đóng giữ và các hương đoàn của bọn địa chủ tiếp tay.

Mặt trận Tả Giang - Long Châu cũng chia hai hướng, một hướng xuất kích từ Lạng Sơn do đồng chí Hoàng Long Xuyên chỉ đạo, đánh mục Nam Quan xuống Bằng Tường, Thượng Thạch, Hạ Thạch, rồi đến Ninh Minh. Một hướng xuất kích từ Cao Bằng do đồng chí Chu Huy Mân chỉ đạo tiến công từ Thủy Khẩu, rồi thọc xuống Hạ Đống và tiến về hội quân tại Ninh Minh. Ngày 12/6/1949, liên quân Việt - Trung từ hai cánh đã đồng loạt phát lệnh tấn công Bằng Tường và Thủy Khẩu. Ngày 13/6 chiếm Hạ Đống và ngày 18/6, diệt viện binh Quốc dân Đảng từ Long Châu xuống, dồn tổng lực tiến đánh Ninh Minh.

Trận tiến công Thủy Khẩu cũng là trận đánh đầu tiên của liên quân Trung Việt trên đất bạn trong suốt 2 ngày đêm. Từ Thủy Khẩu, các cứ điểm khác của quân Tưởng tại La Hồi, Độc Sơn, Hạ Đống lần lượt bị liên quân đánh hạ, hàng binh kéo cờ trắng ra hàng, số khác tháo chạy dọc theo bờ sông Tả Giang và bỏ trống đường tiến thẳng thủ phủ Ninh Minh. Chỉ trong vòng 15 ngày, nơi đây sạch bóng quân Tưởng.

Với hướng Nam Quan - Ải Khẩu, Phó Chỉ huy trưởng Hoàng Long Xuyên chỉ đạo bộ đội Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang của bạn tiến hành phục kích hai đại đội địch, bức chúng chạy khỏi Ải Khẩu chạy về Bằng Tường. Thực hiện kế hoạch “vây điểm diện viện”, các đơn vị đồng loạt tập kích từ nhiều hướng khiến quân địch nhiễu loạn.

Đại tá Hoàng Long Xuyên kể lại: “Một trong những trận dằng co lâu nhất là trận vây đồn Nam Quan, một đại đội của ta vây đồn Nam Quan, một đại đội và một trung đội hỏa lực phục kích trên đường từ Nam Quan đến Bằng Tường cách nhau 15km. Quân ta vây chặt Nam Quan suốt một tuần lễ, chặn đứng nguồn tiếp tế lương thực và đạn dược của chúng, buộc quân Tưởng phải bỏ đồn rút chạy. Các nhóm cứu viện của quân Tưởng ở nơi khác cũng bị quân ta phục kích chặn đánh tan tác”.

Dù rất kinh hoàng trước sự tấn công mạnh mẽ của bộ đội Việt Nam, song chúng vẫn cưỡng ép rất nhiều dân chúng đi theo về hướng Long Châu, gây nên nhiều tình cảm bi thảm cho bà con. Bộ đội Việt Nam vừa đánh chặn địch, vừa cố gắng hạn chế gây thương vong cho nhân dân bị ép đi theo chúng. Trong những ngày chiến đấu trên đất bạn, đồng chí Ngọc Trình, Đại đội trưởng Đại đội độc lập huyện Thoát Lãng, Lạng Sơn, một trong 34 chiến sĩ Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đầu tiên đã dẫn đầu đơn vị đuổi đánh địch từ Ải Nam Quan (nay là Cửa khẩu Hữu Nghị) đến Bằng Tường. Giữa lúc truy kích đầy quyết liệt, đồng chí không may bị một viên đạn trung liên bắn trúng giữa ngực, hy sinh trên đất bạn.

Đợt tiến công của liên quân Việt - Trung tại mặt trận Long Châu thắng lợi, chính quyền cách mạng của bạn được thiết lập ở nhiều nơi và được đông đảo nhân dân ủng hộ. Cuối tháng 6, ta tiếp tục cử các đơn vị lẻ áp sát thị xã Long Châu, tiến hành trinh sát vũ trang, bắn phá quấy rối các vị trí, tuyên truyền vận động nhân dân và tổ chức nghi binh đánh lạc hướng phán đoán của địch và dần siết chặt vòng vây quanh Ninh Minh. Đầu tháng 7, bộ đội ta chia làm nhiều mũi, tiến công thị trấn Ninh Minh. Quân địch ở đây lo sợ trước sức tấn công của quân ta, đã rút phần lớn lực lượng qua sông Kỳ Cùng sang Ninh Giang từ đêm hôm trước. Ngày 5/7/1949, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị kết thúc đợt hoạt động, rút quân về nước để nhận nhiệm vụ mới.

Ở hướng Khâm Châu, sau khi vượt đãy Thập Vạn Đại Sơn, bộ đội ta nhanh chóng tiếp quản nhiều căn cứ của địch ở Khâm Châu và Phòng Thành do địch đã rút về cố thủ ở các căn cứ lớn ở Nà Lường, Đông Hưng và những khu vực giáp biển. Quân số của chúng có hơn 3 trung đoàn và hàng chục dân đoàn hương (một tổ chức vũ trang ở thôn xã của chính quyền Quốc dân đảng). Bác Thân Văn Nhã nhớ lại: “Khi đó, Bộ Tư lệnh quyết định tiến công Trúc Sơn, một thị trấn gần Đông Hưng do ở đây có đường thủy thông ra biển. Đồng chí Nam Long, Tư lệnh mặt trận phát lệnh tiến công vào đêm ngày 5/7, ba cánh quân của ta nổ súng tiến vào Trúc Sơn. Sau 5 ngày đêm bao vây, diệt viện, quân ta không đánh chiến được căn cứ Trúc Sơn nên đã rút quân, nhưng liên quân cũng kịp thời giải phóng được 3 xã ở xung quanh Phòng Thành”.

Sau trận Trúc Sơn, ta tiếp tục đánh tập kích các điểm đóng quân nhỏ lẻ của quân Tưởng. Chúng hoảng sợ rút về Phòng Thành, ta lập tức tiến vào các làng bản làm công tác vận động quần chúng, thiết lập an ninh trên vùng mới giải phóng. Quần chúng nhân dân từ chỗ e dè, sợ hãi đã hân hoan chào đón bộ đội Việt Nam và giúp đỡ bộ đội triển khai các hoạt động để gấp rút thành lập chính quyền cách mạng. Tiếp đó, ta tiến đánh Nà Số, Vòng Chúc rồi hợp quân với bạn tại Mào Lẻng, một thị trấn ven biển sầm uất. Suốt một tháng bộ đội ta vừa đi vừa đánh địch, vừa bàn giao chiến lợi phẩm cho quân bạn và giúp bạn ổn định địa bàn. 

Hơn bốn tháng vừa hành quân vừa chiến đấu tiêu diệt địch, vừa triển khai công tác dân vận, bộ đội ta đã vượt qua biết bao gian nan, nguy hiểm để cùng quân bạn mở rộng và đi tới nối liền căn cứ địa trong khu Thập Vạn Đại Sơn, hoàn  hoàn thành nhiệm vụ quốc tế đầu tiên đầy tự hào. Cuối tháng 9/1949, khi chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang của biên khu Điền Quế và Việt Quế đã liên lạc được với Giải phóng quân Trung Quốc Nam Hạ, bộ đội ta được lệnh rút về nước.

Sau này, để ghi công và tưởng nhớ các chiến binh đã tử trận trong chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, năm 1956, tại thành phố Đông Hưng (Phòng Thành) đã xây dựng đài liệt sĩ, trên bia khắc song ngữ dòng chữ: “Đài kỷ niệm liệt sĩ cách mạng nhân dân Việt - Trung”. Trên bệ có khắc một bia bằng tiếng Việt “Nhân dân Trung Quốc đời đời nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và tình hữu nghị giữa các dân tộc”. Tại thị trấn Thủy Khẩu (Long Châu) cũng có  “Nghĩa trang Liệt sĩ Trung Việt tại Thủy Khẩu Long Châu”. Các liệt sĩ của hai nước Việt Nam, Trung Quốc hi sinh khi tham gia các trận đánh tại mặt trận Long Châu và Khâm Châu đều được quy tập về đây để nhân dân đến thắp hương đoái công tưởng nhớ.

Cụ Sì Láng, 84 tuổi ở chân núi Pò Luông, Bằng Tường ngày ấy mới 14 tuổi, thường xuyên làm giao liên cho bộ đội Việt Nam và dân quân xã thì nhớ rất rõ trận đánh ác liệt ngay trên quê hương mình. Đưa chúng tôi đi thăm mộ đồng chí Ngọc Trình (1 trong 34 chiến sĩ đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân), ông kể, bà con quê ông thương bộ đội Việt Nam lắm. Ngày đó, bộ đội Việt Nam có 5 người bị thương chuyển về bản của ông, hai người hi sinh được an táng tại đây, còn 3 người khác được đưa về Việt Nam điều trị. Hàng năm vào dịp Thanh minh, nhân dân trong vùng vẫn đến dâng hương tại mộ phần của liệt sĩ Ngọc Trình, liệt sỹ Hà Văn Sự của Việt Nam và 1 liệt sĩ Trung Quốc… Vui nhất là những lần bộ đội Việt Nam giao lưu văn hóa với nhân dân bạn. Nhà văn Trần Đăng, tác giả của truyện ngắn nổi tiếng Trận phố Ràng, người sau khi kết thúc chiến dịch đã hi sinh trên biên giới Việt Trung thì đọc thơ. Nhạc sỹ Trọng Loan, thì đàn hát những bài ca hữu nghị và dạy trẻ con cùng hát. Các đồng chí nữ ở tổ quân y, quân dược thì được bà con dạy múa điệu “nông tác vũ”, các đồng chí nam thì giao lưu bóng bàn. Không khí vô cùng thân thiện, đoàn kết.

Cuối tháng 9, hầu hết các đơn vị tham gia chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn đều rút về nước, lãnh đạo và nhân dân các vùng thuộc biên khu Điền Quế và Việt Quế trang trọng tiễn đưa. Đồng chí Trần Phát, Khu ủy viên địa khu Thập Vạn Dại Sơn rơi nước mắt, tiễn chân bộ đội Việt Nam ra tận bờ sông giáp Phù Lủng. Ông nắm chặt tay đồng chí Lê Quảng Ba, giọng nghẹn ngào: “Cám ơn các đồng chí Việt Nam đã phối hợp chiến đấu, đem mồ hôi, xương máu giúp chúng tôi trong lúc khó khăn. Các đồng chí đã để lại những tấm gương trong sáng về tinh thần quốc tế. Cảm ơn cách mạng Việt Nam. Tuy còn bao nhiêu khó khăn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cách mạng Việt Nam vẫn ghé vai đỡ gánh cho cách mạng Trung Quốc. Thật cao thượng!”.

Tác giả: Phạm Vân Anh
Nguồn Văn nghệ số 51/2020

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây