Người làm báo Hưng Yên

http://nguoilambaohungyen.vn


Để yêu đời và muốn viết nhiều hơn

Đọc đi đọc lại cuốn tự truyện của Đại tá Nguyễn Duy Tường - Tổng biên tập Báo CCB Việt Nam, nguyên Phó Giám đốc, Phó Tổng biên tập Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, cảm nhận đầu tiên của tôi là Sống và Viết  dày nhưng không nặng. Những chuyện thời cuộc, những nhọc nhằn, đơn bạc của nghề viết… được tác giả kể lại rất nhẹ nhàng, chân chất, hóm hỉnh với thứ ngôn từ phong phú, trong trẻo, gợi thức, vô cùng hấp dẫn.
111

Sinh ra ở đất Nghi Xuân, Hà Tĩnh - một miền quê sơn thủy hữu tình, lung linh huyền thoại, một miền chữ nghĩa, trong một gia đình “bao đời chui lên từ gốc rạ” (lới của tác giả) đầy ắp tình thương yêu; lớn lên với tuổi thơ rau cháo, nhọc nhằn, bom đạn, nhưng không kém phần thi vị… tất cả đã sớm trui rèn cho tác giả tình yêu quê hương, gia đình; chí thú học hành, đức tính kiệm cần... Không nặng lòng với nơi chôn nhau cắt rốn, không có trí nhớ đặc biệt, chắc chắn tác giả khó có được những trang viết về quê hương xứ sở với tất cả tình cảm sâu lắng, đam mê, thân thương và với khả năng cường ký hiếm có như vậy!

Một thời đói no rau cháo, chiến tranh giặc giã… được tác giả kể lại bằng những câu chuyện, những hình ảnh vừa chi tiết sống động vừa mang tính khái quát cho một thời kỳ, một thế hệ. Đó là những tháng ngày vừa tần tảo mưu sinh, vừa đội bom đội đạn đến trường; là một trưa đầu hè năm 1972 anh gặt lúa bị máy bay Mỹ quần đảo xả đạn 20 ly, “… Chúng tôi nằm nép vào bờ đập, lấy bó lúa chắn bên ngoài, ngửa mặt lên trời quan sát máy bay. Cứ mỗi lần máy bay nhào xuống xả đạn, là bảo nhau nhắm mắt chờ chết…” (tr.167); là cảnh máy bay Mỹ rơi và tác giả cùng đám trẻ trâu trong làng không ai dạy vẫn trở thành những “lính công binh lão luyện” tìm nhặt, đập tháo hàng nghìn quả bom bi mà không mảy may thương vong... Rồi chuyện bi hùng, mất mát đau thương của chiến tranh, bạn học cùng lớp bị bom Mỹ giết hại… được tác giả kể lại với trí nhớ, với năng lực cường ký đặc biệt! Ai cùng trang lứa, cảnh ngộ với tác giả đều thấy hiển hiện bóng dáng mình ở đó.

Truyền thống quê hương, gia đình, khó khăn, đạn bom… đã giúp tác giả nghị lực “gắng kiếm lấy dăm ba chữ để làm cần câu cơm”.  Rồi anh cũng đạt được mục đích đó sau một vài trầy trật:“Thất bại không phải là điều gì đó quá tệ hại, nhất là thất bại đầu đời. Khi đó, ta mới biết tức chí bấm chí và còn có thời gian, cơ hội để làm lại…” (tr.188).

22 năm gắn bó với Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân cũng là quãng thời gian tác giả được sống và viết hết mình với triết lý: “Sống ở đời có thể có người này người kia không ưa, nhưng đừng để ai kinh rẻ mình” (tr.322). Ở đó, bằng tâm và lực của mình, anh đã làm “bà đỡ mát tay” cho hàng nghìn cuốn sách. Chỉ qua một vài câu chuyện tác giả kể về việc làm sách và chuyện “bếp núc” quanh bàn biên tập, người đọc phần nào hiểu được những vui buồn của nghề biên tập. Cũng qua những câu chuyện làm sách và công tác quản lý, người đọc hiểu được phẩm chất, đức độ, bản lĩnh và cái Tâm của người làm sách. Ví như việc xử lý bản thảo sách Những ngày ở Cánh Đồng Chum của Thiếu tướng Nguyễn Bình Sơn, Người lữ hành lặng lẽ của nhà văn Hữu Mai, tự truyện Đường về của Nguyễn Cao Kỳ…, hay tự thấy “đáng xấu hổ” khi có biên tập viên Nhà xuất bản Quân đội cầm bản thảo Nhật ký Đặng Thùy Trâm cả năm mà trả lại… Điển hình cho bản lĩnh của người làm sách là tình tiết ở cương vị phản biện một công trình lịch sử của Quân chủng Hải quân, anh đã không đồng ý với quan điểm của Thiếu tướng Viện trưởng Viện Lịch sử quân về sự kiện “hải chiến Trường Sa” (tháng 3/1988), và khẳng định: “Cần phải ghi lại chính xác từng chi tiết để mai sau muôn đời con cháu biết cha ông chúng nó đã dám phóng hai con tàu lên đảo (Len Đao). Hôm nay, dám hy sinh hai con tàu mới giữ được đảo, chứ mất vào tay đối phương rồi thì trăm năm sau, dẫu có đánh đổi cả hai trăm con tàu cũng khó lấy lại được… Có điều, viết thế nào để tôn trọng sự thật lịch sử mà không ảnh hưởng đến đường lối đối ngoại của Đảng, là cả một nghệ thuật” (tr.331-332).

Có lẽ trong nghề viết, Duy Tường thành công, thăng hoa hơn ở thể loại viết hồi ký, tự truyện cho các chính khách, tướng lĩnh. Với anh, đây là cái duyên, cái may mắn mà không phải ai cũng có được. Quanh “chuyện bên lề” của hơn một chục cuốn hồi ký mà Duy Tường thể hiện, chúng ta càng thấy được những giá trị trong các cuốn sác đầy tâm huyết đó, như Đường xuyên Trường Sơn của Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Đời chiến sĩ của Đại tướng Phạm Văn Trà; Còn trong ký ức của Thượng tướng Nguyễn Văn Được, hay Như tôi đã sống của Đại tá Anh hùng Nguyễn Đăng Giáp… mà anh thể hiện.

Viết sách rồi làm báo nên tác giả Sống và viết được đi nhiều nơi cả trong và ngoài nước. Lợi thế đó cộng với tác phong “Ăn ít, nhìn nhiều” (lời của tác giả) đã giúp anh phát huy tối đa khả năng quan sát, chiêm nghiệm. Từ dáng ngồi ngạo nghễ trên đỉnh cột buồm của ngư phủ nơi quê nhà; mớ tóc màu sương khói của người mẹ, khi anh sang cát cho cụ, đến hang đá ở Thạch Lâm (Vân Nam) mà tương truyền Tôn Ngộ Không chui ra; đám cây húng chó mọc lạ lẫm trong khu vườn một Cựu chiến binh ở tỉnh Chichoaua (Marốc), biển hiệu có chữ Việt hiếm hoi trước một ngôi trường ở Oasinhtơn (Mỹ) hay những bậc cầu thang bằng thép tấm của tháp Effel (Pari), do bàn chân triệu triệu lữ khách mài mòn, thủng nhiều lỗ… đều không thể lọt khỏi con mắt của tác giả. Anh cũng khéo góp nhặt, lồng ghép những câu chuyện vui vẻ, dí dỏm của bản thân, của làng quê, cơ quan, đơn vị… buộc người đọc khó nhịn cười, khó quên.

Thật là thiếu sót, nếu không nhắc đến mảng thơ của Nguyễn Duy Tường, mặc dù như cái cách tác giả viết: “Vui buồn nảy một đôi vần”, là không chủ định làm thơ; thơ với anh chỉ là rung động bất chợt, bất chợt vui buồn mà thành thơ. Cũng như văn, thơ anh lắng đọng từ những dung dị, nhẹ nhàng, gần gũi…

Khó nói hết những gì lắng đọng của một người sống hết mình cho đời và cho nghề viết. Chỉ biết đọc Sống và Viết của Nguyễn Duy Tường giúp người ta thấy yêu đời, yêu người hơn, muốn sống và viết nhiều hơn!



Tác giả: Phạm Văn Trường
Nguồn Văn nghệ số 13/2021

 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây