“Bến lạ” của đời…

Thứ hai - 17/08/2020 10:43
Thơ Đặng Đình Hưng chỉ là một ví dụ đẹp của quy luật muôn đời. Trong cái đẹp thường có cái đau. Hay ngược lại, cái đau cưu mang cái đẹp, thì cũng vậy thôi.

Chính thức làm thơ từ cuối những năm 1950 cho đến khi qua đời, hoạt động nghệ thuật của Đặng Đình Hưng về chữ nghĩa gồm sáu tập thơ. Dù về kiến văn, tiên sinh là bậc cao thủ, không chỉ thi ca mà - trước tiên - nhạc, rồi họa, kiến trúc... Văn hóa Đông-Tây ăn ở chung tình trong con người đó!

111
Nhà thơ Đặng Đình Hưng tại nhà riêng ở C4, tập thể Giảng Võ năm 1988

Văn nghiệp truân chuyên mà dần dần tỏa sáng. Một bất hạnh cho Đặng Đình Hưng, và thường thấy ở các tài năng lỗi nhịp, là sinh thời tất cả các thi phẩm của ông đều chưa được công bố rộng rãi trong công chúng, ngoài sự lưu truyền giữa một số bạn văn nghệ hợp gu. Chỉ đến khi có vài trích đoạn được in trên báo chí vào dịp ông qua đời, thì văn giới và công chúng mới được kinh ngạc trước một tính cách thơ lôi cuốn với thi pháp có một không hai. Nhưng rồi, ngay cả khi đã hiển lộ và gần như không còn bị ngăn cách bởi thời thế, thơ Đặng Đình Hưng vẫn như thi sơn cô lập. “Cái quan” chưa hẳn “định mệnh”.

Nói về phong cách, các sáng tác văn học của Đặng Đình Hưng rất kỳ khôi, rất khó hiểu, ngay cả trong giới trong nghề. Một không gian thi ca, một thời gian thi ca mang vẻ đẹp siêu thực sao mà thô ráp gần gụi, vừa hiện đại ở cách thể hiện vừa đau đớn ở cảm xúc muôn thuở. Tất cả, sóng sánh những niềm tin cuối cùng vào chân - thiện - mỹ. Như một niềm tin lành lặn mà lẻ loi.

Hãy thử nhìn lại một thoáng về hai sáng tác quan trọng nhất đã được công bố của Đặng Đình Hưng. Mà đến nay, sau 30 năm, vẫn còn đó uốn lượn những dấu hỏi đầy hứng thú cho văn đàn và độc giả.

***

Tập di cảo mang tên Bến Lạ, năm 1991 - ngay sau khi thi sĩ qua đời một năm - được nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh giới thiệu “như là thể nghiệm thơ của Đặng Đình Hưng. Thực vậy, lúc đó cách viết của Bến Lạ hoàn toàn chưa quen thuộc với bạn đọc. Nếu không nói là lần đầu tiên thi đàn Việt Nam đương đại có một “thứ thơ” kỳ cục mà sang trọng đến vậy! Với thời gian và với quy luật sáng tạo chân chính, tập thơ Bến Lạ dần hé ra một tâm tư chân thành không hề xa cách với những ai biết rung động.

Thế rồi sau đó, như những tiếng gà gáy gọi báo bình minh, cùng hình thức thể nghiệm tương tự Bến Lạ của Đặng Đình Hưng, công chúng thi ca lại được biết thêm một số tập thơ cũng cực kỳ khó hiểu mà lại vẫn sang cả của Trần Dần, như tập Mùa Sạch xuất bản năm 1998. Đến hôm nay, có tới cả dăm chục tác giả thành danh và đang thành danh ở trong và ngoài Việt Nam đã là chủ nhân của các sáng tác theo những khuynh hướng - tạm gọi chung là “hậu hiện đại” - đồng điệu đồng cảm với Đặng Đình Hưng và Trần Dần; ít nhất về tâm thức sáng tạo. Tuy thế, nói cho ngay, chỉ riêng về mặt ngôn ngữ thi ca nói riêng và sử dụng tiếng Việt nói chung cũng chửa thấy một ai qua mặt hai vị tiền bối.

Bến Lạ được thai nghén chắc hẳn từ đã lâu và bản thảo ra đời khi tác giả qua tuổi 60 trên giường bệnh. Từ khung cảnh chật chội cầm tù thân xác, thi sĩ thủng thẳng bước vào thế giới nội tâm vô tận. Bài thơ dài, chảy trong không gian nghệ thuật như vậy rất hợp với Đặng Đình Hưng, vì toàn bộ thi liệu nơi ông là chuỗi độc thoại trong sự cô độc bất di san bằng, bất khả san sẻ. Nói nôm, người thơ ở thế chân tường. Tường của thơ ca. Tường của đời thường. Bên kia tường là… bến lạ. Tất nhiên thôi, “quay đầu là bờ” là bến. Bến của riêng Đặng thi nhân. Nó luôn là lạ với chính chủ. Càng lạ với nhân quần bá tánh.

Đây, những câu thơ bảng hiệu Đặng Đình Hưng vẫn nằm lòng những người yêu thơ từ đó tới nay:

“Vâng, tôi chán Bến Lạ

Tôi già rồi

Tôi không làm jì được quyển lịch”.

Tứ không lạ lắm. Thể hiện tự nhiên. Diễn ngôn trực tiếp. Lặp ba chữ “tôi” trong ba câu ngắn tí. Lối nói đặc trưng người già Bắc kỳ dề dà ca cẩm chì chiết... Tất cả bình thường. Ngay cái lối viết lạ “” là điểm nhấn của đoạn thơ (cũng là thủ pháp trong toàn tác phẩm), nếu trở về “” cũng vẫn không làm mất đi tâm thế dễ thấy ở thơ Đặng Đình Hưng: bất lực trong mộng tưởng. Từ khóa của ba câu thơ là “Bến Lạ”, tất nhiên rồi. Một cách thơ hóa sự lực bất tòng tâm trước ông lão Thời gian.

Cảm xúc ở phút cuối cùng bên bến bờ sinh tử. Ông già có tên Hưng không hề thấy cái chết đón chờ thân xác mình. Mà thấy đang có Một Bến Lạ đợi chờ một thi sĩ họ Đặng, dù thi sĩ đâu có ham.

Với thi - bệnh - nhân kỳ lạ mang hồ sơ Đặng Đình Hưng, nếu ba câu thơ trên thuộc về cực trầm cảm thì sáu câu thơ sau ở cực hưng phấn của chứng cảm xúc lưỡng cực/ bipolar (mà bất kỳ nhà thơ thứ thiệt nào cũng mắc dính ít nhiều). Họ Đặng là nhà thơ thứ thiệt và “thứ dữ”:

“Bến lạ ngay gầm jường

mưa to ngay ở gầm bàn

và trong hòm mọi con người

 chở một con tàu navir trọng tải

những hình thù Hồng hải căng lên

những cái yếm mùi nồng của

đám cưới năm ngoái hong ra

khoe và đã đi – những cột đèn

đứng lại.”

Bốn câu đầu quả là đặc biệt, không ít thi sĩ thứ thiệt có thể làm đồng tác giả. Song hai câu cuối chỉ có nơi Đặng Đình Hưng. Thi bá, thi hữu cùng hoạn nạn - Hoàng Cầm lãng mạn hơn, dân gian hơn, viết về “yếm” ắt là “nồng” hơn nhưng chắc không thể cho nó “hong ra” để “khoe và đã đi – những cột đèn đứng lại.” Chỉ ở Đặng Đình Hưng.

Ấy thế, một thi bá khác cũng bạn thơ, là Trần Dần - người có lưỡng cực cảm xúc đồng điệu đồng hành với Đặng Đình Hưng - vẫn có thể là tác giả các câu thơ trên. Cùng ở cực hưng phấn này Đặng Đình Hưng cũng có thể viết các lời thơ bảng hiệu Trần Dần: “Hãy sống như / những con tàu / phải lòng / muôn hải lý / Mỗi ngày / bỏ / sau lưng / nghìn - hải - cảng - mưa - buồn!”

***

Thi phẩm thứ hai đã được ra mắt với đời của Đặng Đình Hưng là Ô Mai, do nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành tại Hà Nội năm 1993. Đó cũng là sáng tác cuối cùng của ông, hoàn thành không lâu sau Bến Lạ. Chính người bạn tri âm tri kỷ là Hoàng Cầm đã viết bài giới thiệu có nhan đề Thư Gửi Người Âm.

Tập Ô Mai như tác giả tự gọi là Roman poem, có thể hiểu là tiểu - thuyết - thơ; và đúng như đánh giá của nhà thơ, nhà phê bình Hoàng Hưng. Rằng Ô Mai mang một hình thức đặc biệt, có lẽ chỉ có riêng ở tác giả và cũng chỉ xuất hiện một lần: trên nền một độc thoại nửa thơ nửa văn xuôi, hiện lên câu chuyện tình hư hư thực thực với những đoạn hát đôi của nhạc kịch, xen kẽ là những tùy bút đầy không khí và những đối đáp lý thú về công việc sáng tạo mà ông gọi là “thể ngiệm”” (Lời giới thiệu sách Ô Mai)

Người ta đã bàn cãi nhiều. Tất nhiên. Và thi giới Việt Nam còn cần trở lại tranh biện thêm về “hiện tượng Ô Mai” sao cho học thuật hơn nữa, thi ca hơn nữa, thay cho chủ yếu đọc Ô Mai vì Đặng Đình Hưng. Cần phải đọc Ô Mai vì Ô Mai. Trả tác phẩm về văn bản của nó. Có thể tham chiếu bằng lai lịch tác giả, chứ không phải theo lý lịch tác giả.

Nếu lấy các chuẩn mẫu nhận định thông thường, về nội dung, tư tưởng, đề tài, thể loại... với sáng tác thơ này khó có thể trích ra một câu, một đoạn để minh họa. Chúng sẽ “vô nghĩa toàn phần” trong con mắt, cảm nhận và lý trí phê bình khi so đo với các tác phẩm thơ thông thường. Tức là Ô Mai phá hủy chuẩn mực trên gần hết tiêu chí văn học từng có.

Có cái gì không thơ và cái gì thơ trong trích đoạn sau, mở đầu chương 1 của tiểu - thuyết - thơ của Đặng Đình Hưng?

“Lần này không ngồi ở jữa chợ, ồn. Anh lui vào một quán không nhìn thấy, mà từ quán nhìn thấy các dòng đi - xe - người - những cái rổ rá - mớ rau - như thể một fông động. Thú, cực thú! có lúc mải ngắm và nếm (nếm là đích) anh quên khuấy một cái chén trên tay.

Nếm cả một cái chợ không fải là chuyện dễ. Fải có một động cơ cực mạnh: Thèm. Có thèm mới ăn được. Kiểu nhà thơ, người ta ăn tái.

ăn tái bình minh

ăn tái buổi chiều

ăn (ràu rạu) cả mặt trời”

Đấy vẫn còn là một trích đoạn hiểu được, có nghĩa. Nhiều câu, đoạn, trường đoạn trong Ô Mai rất “quái”, tưởng như vô ý tứ, thậm chí lệch ngữ nghĩa tiếng Việt, nếu đọc theo kiểu nhảy dù, tách chúng ra khỏi khung cảnh tác phẩm. Tức là khó có thể biết các câu, đoạn, trường đoạn đó có ẩn dụ nghệ thuật gì. Thế nhưng, toàn bộ tác phẩm vẫn đủ đầy ba tiêu chí thuộc về bản chất thi ca: cảm xúc mãnh liệt; tưởng tượng phong phú và câu chữ chảy theo một nhịp điệu riêng. Đa số các nhà phê bình chuyên nghiệp cho rằng thơ Đặng Đình Hưng góp phần làm đa dạng tiếng Việt, bằng hình thức ngôn ngữ trữ tình mang dáng vẻ nửa dân dã nửa trí thức.

Về mặt tâm lý sáng tạo, Ô Mai là “thể nghiệm cuối cùng” về nỗi “cô đơn toàn phần” của thế giới Đặng Đình Hưng. Mang nặng nỗi niềm nhân bản khao khát tình thương giữa hai đối tượng nam nữ mỗi người một thân phận cô độc khác nhau, dòng thơ lạ lùng ấy đã hướng người đọc đến lối siêu thoát mà nhà thơ may mắn rẽ vào ở cuối đoạn đời bi thương. Cả thơ lẫn người - tác giả và nhân vật trữ tình. Kết thúc đẹp và đau.

May sao, nhìn và đọc đoạn chót của Ô Mai vẫn thấy… thơ:

“Mùa hương đi tóc xanh

mắt xanh

tình xanh

đi nơi xanh

rừng xanh

tìm xanh

tìm anh!”

***

Đặng Đình Hưng từng có hai câu thơ quá đỗi tân kỳ, bạt mạng phong thái Âu châu mà rất chi là bình dị, chân chỉ dân Việt nước Nam:

Tôi đi xa ra phố nửa giờ

Tìm một cái ao ngồi giặt áo

cả ngày…”

Nghịch lý đến mức giản đơn. Hai cái hiện thực tầm thường, ghép lại nhau, vụt trở nên “thoát thực”. Chỉ có thi ca mới có thể. Chỉ có thi ca Đặng Đình Hưng mới có thể.

Không thơ - ca chút nào mà thơ - ngây tột cùng. Ngay với những người không sính thơ thẩn, có lẽ cũng cảm thấy ở hai câu thơ có gì đó nếu không ngồ ngộ thì cũng hay hay, và… tội nghiệp?

Chúng ta cứ nhẩn nha đọc chậm, đọc khẽ; rồi sẽ thấy ánh lên một tín hiệu nghệ thuật chân xác về tư chất của tác giả, và cũng như của các văn hữu khác đồng điệu “quai quái” - những người chỉ thích “đi xa ra phố nửa giờ/ Tìm một cái ao ngồi giặt áo cả ngày”.

Đặng Đình Hưng, thi – nhân - bến - lạ hãy yên lòng! Ông không còn là Thi Sơn cô đơn với bạn đọc thơ tiếng Việt.

Tác giả: Đỗ Quyên
Nguồn Văn nghệ số 33/2020

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

THƯ VIỆN ẢNH ĐẸP
5.jpg 66.jpg 29.jpg 49.jpg 20.jpg 42.jpg 13.jpg 37.jpg 6.jpg 67.jpg 31.jpg 50.jpg 22.jpg 43.jpg 15.jpg 38.jpg 7.jpg 68.jpg 33.jpg 52.jpg 24.jpg 45.jpg 16-1.jpg 39.jpg 40.jpg 9.jpg 71.jpg 34.jpg 63.jpg 27.jpg 48.jpg 19.jpg 41.jpg 12-qn1.jpg a-T.jpg 36.jpg 8a334df96fbbb3e5eaaa.jpg ec1643b261f0bdaee4e1.jpg 75528951ab13774d2e02.jpg 740f0438267afa24a36b.jpg 9e931db13ff3e3adbae2.jpg eef9d3a2f1e02dbe74f1.jpg ac94b8a49de641b818f7.jpg ae0f6bdb499995c7cc88.jpg 895e11f733b5efebb6a4.jpg 27c48a2ea86c74322d7d-1.jpg f7b945c06782bbdce293.jpg 0f6e3f741c36c0689927.jpg c23927250467d8398176.jpg 906029e10ba3d7fd8eb2.jpg 32b8e242c0001c5e4511-1.jpg f774eba794e548bb11f4.jpg 7a0a8baca9ee75b02cff.jpg dcd1d242f0002c5e7511.jpg 23289506b7446b1a3255.jpg 66d134e644a498fac1b5-1.jpg 1389b67fa302625c3b13-1.jpg f69297bc83c1429f1bd0-1.jpg 33f61d080875c92b9064-1.jpg e71f3a932feeeeb0b7ff-1.jpg 3b4258344c498d17d458-2-1.jpg aecc18440d39cc679528-1.jpg 01b53b002e7def23b66c-1.jpg 7536f22be75626087f47-1.jpg f87058784d058c5bd514-1.jpg 48dd535d4620877ede31-1.jpg ea6a58024d7f8c21d56e-1-1.jpg 4f0be64af33732696b26-1.jpg b673068913f4d2aa8be5-1.jpg 1d4bb15da420657e3c31-1.jpg 35021b9c0ee1cfbf96f0-1.jpg ffc69024855944071d48-1.jpg 87e8e87cfd013c5f6510-1.jpg f7a58a679f1a5e44070b-1.jpg 5b9e981a8d674c391576-1.jpg dfefc79bd2e613b84af7-1.jpg 02ac9b4b8e364f681627-1.jpg 142989b99cc45d9a04d5-1.jpg fe3d1d75bf087e562719.jpg 94d3461b53669238cb77-1.jpg f38c46ee539392cdcb82-1.jpg 7f5885f9908451da0895-1.jpg e5c4472a52579309ca46-1.jpg 3b20a26fb712764c2f03-1.jpg 0506885d9d205c7e0531-1.jpg d203ce4d69c0a29efbd1.jpg b91ad73673bbb8e5e1aa-1.jpg 520c873d23b0e8eeb1a1.jpg 8f815695f21839466009.jpg d9977394d7191c474508.jpg b94a739fd4121f4c4603.jpg 2799f500528d99d3c09c-1.jpg 0905f0a2572f9c71c53e.jpg 0b4698843f09f457ad18.jpg d5502603818e4ad0139f.jpg c364cdd36a5ea100f84f.jpg 4126eb8e4c03875dde12.jpg 35b9c64f61c2aa9cf3d3.jpg eb2c4421e0ac2bf272bd.jpg cd43fd4859c5929bcbd4-1.jpg
  • Đang truy cập44
  • Hôm nay3,664
  • Tháng hiện tại112,976
  • Tổng lượt truy cập3,082,886
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây