Bài 1 Hành trình cứu dân, cứu nước, giải phóng dân tộc.
Trong không khí tưng bừng, phấn khởi của những ngày vui say, hăng hái thi đua lao động sản xuất, công tác, học tập lập thành tích chào mừng kỷ niệm 190 năm thành lập tỉnh (1831-2021), 80 năm thành lập Đảng bộ và 25 năm tái lập tỉnh Hưng Yên (1.1.1997 – 1.1.2022), lòng chúng ta lại tha thiết nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại- vị cha già kính yêu của dân tộc - Người đã làm rạng rỡ non sông ta, đất nước ta.
Bài 1 Hành trình cứu dân, cứu nước, giải phóng dân tộc. Cách đây hơn một trăm năm, nước ta đang bị thực dân Pháp thống trị, các phong trào yêu nước chống Pháp của văn thân, sĩ phu và nhân dân ta trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như các cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Yên Thế, phong trào Duy Tân do nhà yêu nước Phan Bội Châu đứng đầu, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục... đều thất bại.
Trong bối cảnh ấy, ngày 5.6.1911, Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó tên là Nguyễn Tất Thành-Văn Ba, rồi Nguyễn Ái Quốc rời bến cảng Nhà Rồng (TPHCM) trên con tàu Đô đốc Latouche-Treville sang Pháp, khởi đầu hành trình cứu dân, cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi chế độ thuộc địa. Người đã đi đến nhiều nước ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, châu Á để tìm con đường cách mạng. Qua nhiều năm bôn ba lao động, học tập ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-Lê nin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn- con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định muốn cứu dân, cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Từ những kiến thức, kinh nghiệm đã học hỏi được, mùa xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long (Trung Quốc) quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản nước ta thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam.
Được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức, giáo dục và rèn luyện, chỉ trong vòng 15 năm kể từ ngày thành lập, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, để ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình Hà Nội, thay mặt quốc dân đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Kể từ đây nước Việt Nam trở thành một nước độc lập, tự do, nhân dân Việt Nam sống trong hòa bình, hạnh phúc, nước Việt Nam chính thức có tên trên bản đồ thế giới.
Tuy nhiên, nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày ấy hưởng hòa bình, độc lập tự do hạnh phúc chưa được bao lâu, thì thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Hải Phòng, Lạng Sơn, bị Pháp đánh chiếm rồi chúng đưa quân trái phép vào Hải Dương, Đà Nẵng...Vận mệnh Tổ quốc lâm nguy như ngàn cân treo sợi tóc. Để bảo vệ nền độc lập, tự do cho nhân dân, đêm ngày 19.12.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” chống thực dân Pháp xâm lược. Đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Người, nhân dân ta từ miền xuôi đến miền ngược, từ miền Bắc đến miền Nam, từ trẻ tới già, trai, gái đồng lòng, người có súng dùng súng, người có gươm dùng gươm, người không có súng, gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc quyết tâm đánh thắng thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ kính yêu, sau 9 năm (1946-1954) gian khổ, trường kỳ kháng chiến, nhân dân Việt Nam ta làm nên “thiên sử vàng”, khi đánh bại thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, buộc Pháp phải rút quân về nước.
Khi tiếng súng ở chiến trường Điện Biên Phủ vừa kết thúc, Hiệp định Ge ne ve về lập lại hòa bình ở Đông Dương (ngày20.7.1954) được ký kết, chấm dứt gần 100 năm xâm luợc của Pháp, miền Bắc nước ta được giải phóng, miền Nam vẫn còn trong cảnh lửa bỏng nước sôi chịu ách thống trị của đế quốc thực dân, đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền. Trong khi quân và dân ta nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Ge ne ve thì đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm tìm mọi cách phá hoại Hiệp định, cự tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử, đàn áp đẫm máu đồng bào, chiến sỹ cách mạng miền Nam. Không cam tâm đứng nhìn bè lũ bán nước và cướp nước dày xéo non sông, đất nước, giết hại đồng bào mình, với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do”, “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn chiến đấu quyét sạch nó đi”, nhân dân Việt Nam ta nghe theo lời Đảng, Bác Hồ kính yêu, một lần nữa anh dũng đứng lên chống Mỹ cứu nước. Nhân dân miền Nam thành đồng của Tổ quốc, trực tiếp cầm súng chiến đấu chống lại kẻ thù, nhân dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa là “hậu phương lớn”, sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho miền Nam tiền tuyến đứng lên diệt giặc. Theo đó hàng vạn, hàng vạn thanh niên miền Bắc tình nguyện “xẻ dọc Trường Sơn” đi cứu nước, sát cánh cùng quân và dân miền Nam chiến đấu tiêu diệt kẻ thù chung. Sau 21 năm (1954-1975) không sợ hy sinh gian khổ, bền bỉ chiến đấu quên mình, với cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc trường kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, “Mỹ cút, ngụy nhào”, hai miền Bắc Nam xum họp một nhà, đất nước trọn niềm vui, thỏa lòng mong đợi của Bác kính yêu.
Ngày 3.9.1969 Bác Hồ đã đi xa, Người về với thế giới người hiền, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn và một di sản vô giá đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây là kim chỉ nam hành động - ngọn đuốc sáng soi đường cho cả dân tộc ta vững bước tiến lên.
Nghe theo lời dạy của Người, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đoàn kết anh dũng tiến lên, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, đoàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong ước của Người. Từ một đất nước đói nghèo, lạc hậu Việt Nam ta trở thành một trong những cường quốc xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Vai trò, vị trí nước ta được nâng cao trên trường quốc tế. Nước ta là thành viên của nhiều tổ chức quan trọng như ASEAN, Liên Hợp Quốc... Việt Nam ta đã có thể sánh vai cùng với các nước cường quốc năm châu.