70 năm trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng (4/4/2019): Hành trình 40 năm cho một địa chỉ đỏ

Thứ tư - 03/04/2019 09:17
Tôi bật khóc vì sung sướng khi nhận được tin Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch vừa ký Bằng công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia và cả việc hoàn thành khắc, dựng bia nữa địa điểm nơi tổ chức Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng tại xã Tân Thái huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên…

Lễ kỷ niệm sự kiện này sẽ được tổ chức trọng thể vào sáng 4/4/2019. Vậy là đã 40 năm kể từ ngày tôi biết sự kiện này…       
Ban Giám hiệu Trường Dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng. Ảnh: T.L
Ban Giám hiệu Trường Dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng. Ảnh: T.L
Như những mảnh ghép của quá khứ, tôi lần lần nhớ lại. Cuối năm 1979, tôi là phóng viên TTXVN có lần đi làm việc tại Trường sỹ quan Chính trị đóng tại thị xã Bắc Ninh. Lúc về, may mắn tôi được đi nhờ xe con của hiệu phó nhà trường là đại tá Mạc Ninh. Trên xe còn có nhà báo Chính Yên (Nguyễn Trung Chính) của Báo Nhân Dân- anh lên để viết bài Sỹ quan trẻ thời kỳ mới. Trên xe từ Bắc Ninh về phố bộ đội Lý Nam Đế, Hà Nội, khi biết tôi là người Thái Nguyên, anh Chính Yên tỏ ra thân thiện, sôi nổi. Anh nói anh được học lớp đầu tiên của Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng cùng với Trường thiếu sinh quân đóng trong khu rừng rậm rạp thuộc địa phận xóm Bờ Rạ, Gốc Mít, xã Tân Thái, huyện Đại Từ. Anh bảo chỉ mấy tháng mà học được nhiều lắm, đặc biệt được nhiều lãnh đạo cao cấp như bác Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt,  Xuân Thủy, Tố Hữu… dạy học. Anh kể đến được nơi đó anh phải trèo đèo lội suối mất dăm ngày đường, từ Phúc Yên, Vĩnh Yên, vượt Đèo Nhe gian nan vất vả lắm. Anh còn bảo: Lớp học ấy đã quyết định để anh dấn thân vào con đường làm báo cách mạng. Đến phố Lý Nam Đế, tôi xuống xe, thủ trưởng Mạc Ninh và anh Chính Yên còn dặn với theo: Có điều kiện về Thái Nguyên thì tìm về  Bờ Rạ, Gốc Mít, xãTân Thái giúp, tự hào truyền thống báo chí lắm đó, vì lúc nào các anh cũng mong được trở lại đó một lần…Những năm 90 của thế kỷ trước có nhiều đoàn cán bộ các cơ quan, ban ngành Trung ương tìm lại nơi ra đời hay từng đóng quân để lập hồ sơ và ghi dấu di tích, kết hợp tri ân địa phương, cơ sở, lớp người đi trước… Âu đó cũng là lẽ thường, vì thắng Pháp rồi còn lo đi đuổi Mỹ, đằng đẵng mấy chục năm trời, lúc ấy mới có điều kiện tri ân lịch sử. Làm phóng viên Báo Đảng địa phương, chúng tôi hay được nhập vào các đoàn về nguồn, đơn giản vì trách nhiệm và quen thung thổ…  Câu chuyện tìm mộ nhà báo liệt sỹ Thôi Hữu, Ủy viên Ban biên tập báo Sự Thật (Nhân Dân) hy sinh năm 1948 và nằm lại ở xã Vô Tranh huyện Phú Lương. Đi lại nhiều lần, cuối cùng cũng tìm ra…rồi tham gia tổ chức đưa tác giả bài thơ nổi tiếng: “Lên Cấm Sơn” về quê nhà yên nghỉ. Câu chuyện tìm về nơi in báo Nhân Dân số đầu 11/3/1951 tại bản Khuôn Nhà, xã Quy Kỳ, huyện Định Hóa dễ dàng hơn vì nhân chứng còn nhiều, tìm ra rồi, báo Nhân Dân tổ chức dựng bia, xây lớp học cho các con em của bản, trở thành nơi đi về của báo mỗi kỳ sinh nhật.

Báo Quân đội Nhân Dân thành lập ngày 20/10/1950 tại bản Khau Diều, Thanh Định, Định Hóa cũng dễ dàng tìm ra do được ghi chép tỉ mỉ và ngay bản có anh Lê Nhâm, cộng tác viên Báo Bắc Thái rất thông tỏ việc này. Câu chuyện tìm về nơi ra đời Hội những người viết báo Việt Nam ngày 21/4/1950 cũng cực kì gian truân… Cuối cùng thì vị trí đồi Khau Quạo, xóm Roàng Khoa, xã Điềm Mặc (Định Hóa) cũng phát lộ bằng sự nỗ lực tìm kiếm của các thế hệ lãnh đạo, nhân viên Hội Nhà báo Việt Nam, Bắc Thái và các cơ quan báo chí… Bước sang thế kỷ XXI thì tất cả các địa điểm liên quan đến báo chí, phát thanh, văn hóa, văn nghệ, điện ảnh… ra đời hoặc từng ở trong năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp ở ATK Thái Nguyên đều làm xong, duy chỉ có một địa chỉ Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng năm 1949 là để đó…Khi còn công tác ở Báo Bắc Thái chúng tôi có 3 lần được tiếp các học viên về nguồn, Lần đầu trên 20 người, các lần sau ít hơn. Nhiều người trong đoàn do có tên tuổi trong làng báo chí, văn hóa, văn nghệ mà anh em báo Đảng địa phương chúng tôi biết: Bành Bảo, Nguyễn Bình,Trần Vũ, Hữu Mai, Hải Như, Hoàng Kiên Trung, Mai Thanh Hải, Lý Thị Trung, Hải Như… Khi đi thăm lại địa điểm xưa, hỏi xóm Bờ Rạ không ai tỏ vì 11 xóm của Tân Thái không có tên. Ai cũng cho rằng xóm đã nằm dưới lòng hồ do nước dâng từ năm 1973… Biết tôi quan tâm, một người cháu gửi tặng cuốn “Đường tới Bờ Rạ” của tác giả Andrew Hardy do Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp xuất bản năm 2008. Đọc xong cuốn sách dày 122 trang, hành trình đi tìm về Bờ Rạ là những cuộc di dân thời Pháp lên làm đồn điền và các cuộc di dân làm Hồ Núi Cốc những năm 1970. Dù vậy thì cái tên Bờ Rạ, Gốc Mít đã gây sự chú ý, có một phần từ chính các học viên lớp viết báo duy nhất trong kháng chiến chống Pháp này để lại qua các trang viết và câu truyện kể… Bằng tìm hiểu, cái kết cuối cùng của Andrew Hardy là xóm Bờ Rạ có thật nhưng phần có dân, cạnh sông Công nằm dưới lòng hồ, nước dâng, dân đi hết, không còn tên xóm; phần đồi núi cao là rừng, núi, dân xóm Gốc Mít nhận khoán trồng rừng, làm rãy. Thửa đất số 32 tờ bản đồ số 47 ,có tọa độ quốc gia 21độ 35 phút 42 giây vĩ bắc ;105 độ 41 phút 42 giây, loại đất trồng rừng hiện đang xây dựng bia di tích lịch sử chính là đây.
Các học viên tại Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng Ảnh: T.L
Các học viên tại Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng Ảnh: T.L
Đau đáu về địa chỉ đỏ của báo chí một thời, nhà thơ Hải Như, tác giả bài thơ nổi tiếng “Chúng cháu canh giấc ngủ Bác, Bác Hồ ơi”…Trăng vào cửa sổ đòi thơ/ Bác vừa chợp mắt, xin chờ trăng ơi… cũng đôi lần về Thái Nguyên và lần nào cũng nghỉ tại Nhà khách Tỉnh ủy. Anh Lương Đức Tính, Bí thư rồi anh Nguyễn Văn Vượng, Bí thư khóa sau luôn trân trọng bác Hải Như, thường giao cho tôi nhiệm vụ giúp bác trở lại Tân Thái…Nhưng quả thật rất khó vì tư liệu tản mạn, chủ yếu ký ức của từng người… Năm 1990 còn hơn 20 bác lên, năm 1994 chỉ có 13 bác lên. Rồi công việc bộn bề… Tôi chuyển hướng viết các bài báo, làm phóng sự với VTV1 “Ký  ức Bờ Rạ “ để có thêm tư liệu và sự ủng hộ. Thời gian nghiệt ngã, đến lúc này chỉ còn 4 bác trên dương thế. Trong phóng sự ấy, bà Lý Thị Trung lần nữa thể hiện ước nguyện có một tấm bia lưu danh sự kiện tại Tân Thái này…Tôi thảng thốt về sự chậm chạp của hậu thế này. May thay, năm 2019 là năm kỷ niệm 70 năm của trường, cơ hội cuối cùng đây! Chủ tịch Hội, các phó chủ tịch, Bảo tàng Báo chí Việt Nam ủng hộ; Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thái Nguyên, Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch ,huyện Đại Từ, xã Tân Thái đều ủng hộ thế là công việc trôi chảy…

Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng là do Bác Hồ đặt tên bởi cụ là cây đa, cây đề của báo chí yêu nước và cách mạng. Cụ Huỳnh sinh cuối năm 1876 ở làng Thanh Bình, Tổng Tiên Giang thượng, huyện Tiên Phước, Quảng Nam. Cụ nổi danh vì đất Quảng Nam thời ấy có tam hùng (Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp và Phạm Liệu). Cụ đỗ đạt cao, không chịu làm quan cho Pháp, phải đi đầy Côn Đảo 13 năm… Ra tù, con đường quan lộ của cụ thật thênh thang nhưng cụ trối bỏ và năm 1927 làm chủ bút tờ Tiếng Dân. Hầu hết các bài xã luận trên tờ báo này đề do cụ viết, kích thích lòng yêu nước của độc giả. Báo chí lúc ấy bị thực dân Pháp kiểm duyệt chặt chẽ, có bài báo cụ bị yêu cầu sửa theo ý người kiểm duyệt, cụ khẳng khái: “Hoặc là cho đăng nguyên văn, hoặc là bỏ, một chữ cũng không sửa”… Bản lĩnh chủ bút ấy của cụ Huỳnh đã làm nên tên tuổi báo chí của cụ. Trong cuộc đời làm báo của mình, cụ Huỳnh xác định: “Nếu không có quyền nói tất cả những điều mình muốn nói thì ít ra cũng giữ cái quyền không nói những điều người ta ép buộc nói”…
“Hồn nước từ đây trời mở cửa
Đố ai ngăn đặng ngọn xuân trào”
Hai câu thơ trên được bung ra từ ngòi bút của cụ khi Cách mạng tháng Tám thành công. Năm đó cụ Huỳnh cũng đã tròn 70 tuổi… Cụ được Bác Hồ mời tham gia chính phủ Liên hiệp, giữ chức Bộ trưởng Nội Vụ và Quyền chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp dự Hội nghị Phông-ten-nơ-Blo và là Chủ tịch Hội liên Việt.

Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, cụ vào Nam Trung Bộ đảm nhiệm chức vụ đại điện chính phủ Trung ương, cụ qua đời do lâm bệnh mất ngày 21/4/1947 tại Quảng Ngãi. Cụ là chiến sĩ yêu nước nổi tiếng, một nhà báo can trường và nhân ái. Cụ không muốn danh vị, không cần lợi lộc, không tham làm giàu, không tham làm quan”. Cả đời cụ chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập (lời Hồ Chủ tịch trong thư báo tin lễ Quốc tang khi cụ Huỳnh).

Trường dạy làm báo  Huỳnh Thúc Kháng có lớp đầu tiên và duy nhất , sau do điều kiện khó khăn không mở tiếp, tuy ngắn hạn, không đông học viên, nhiều quy mô về nội dung và số cán bộ giảng dạy là những lãnh đạo của cuộc kháng chiến, kinh nghiệm và phong phú lý luận, thực tiễn…
 
Các ông Đỗ Đức Dục, Phó bí thư Tổng bộ Việt Minh (Giám đốc), Xuân Thủy (Phó Giám đốc), Như Phong, Đồ Phồn và Tú Mỡ là các ủy viên của ban lãnh đạo. Đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Tổng bộ Việt Minh đọc diễn văn tại lễ khai trường 4/4/1949 đã nói: “Lớp mang tên cụ Huỳnh Thúc Kháng bởi ngoài các phẩm chất của người yêu nước, là đức tính căn bản của một ký giả”.
 
42 học viên học trong 3 tháng được đón 29 giảng viên: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Lê Quang Đạo, Tố Hữu, Nguyễn Thành Lê, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Nam Cao, Thế Lữ, Nguyên Tuân, Quang Đạm v.v…, đại điện cho nhiều bộ môn mà người viết báo cần phải trau dồi… Ba tháng nhưng học viên lĩnh hội một chương trình đồ sộ của 3 phần: lý thuyết, chuyên môn và thực hành. Lý thuyết có các bài như: Báo chí là gì? Điều kiện người viết báo. Chuyên môn có: phóng sự, điều tra, phỏng vấn, xã luận, tiểu thuyết, thơ ca, tùy bút, nhạc, kịch, châm biếm, cách loan tin, viết tin, cấu tạo một tờ báo, tổ chức tòa soạn, phát hành, in báo. Thực tế là đi làm tác phẩm và ra báo ở từng tổ. Các giảng viên đến nói ở lớp từng chuyên đề: xã luận (Trường Chinh), viết tin chiến sự trên báo chí như thế nào? (Võ Nguyên Giáp), lên trang (Trần Đình Thọ)…

Ngày 6/7/1949, tại đây, lớp học bế mạc. Bác Hồ gửi thư cho lớp. Bác biểu dương và nhắc 4 điểm chính về nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích, đối tượng của mỗi tờ báo, mục tiêu của báo chí và nhấn mạnh: muốn viết báo thì cần: “1 - Gần gũi quần chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết thiết thực. 2 - Ít nhất cũng phải biết một thứ tiếng nước ngoài, để xem báo nước ngoài và học kinh nghiệm của người. 3 - Khi viết xong một bài báo, tự mình phải xem lại ba, bốn lần, sửa chữa lại cẩn thận. Tốt hơn là đưa nhờ một vài người ít văn hóa xem và hỏi họ những câu nào, chữ nào họ không hiểu thì sửa lại cho dễ hiểu. 4 -  Luôn cố gắng học hỏi, luôn cầu tiến bộ…”

Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng là điển hình của cách học tập và truyền đạt sâu, kỹ và nghiêm túc. 42 học viên và 29 giảng viên là những hạt nhân của báo chí cách mạng Việt Nam luôn tỏa sáng và góp phần to lớn để có nền báo chí hôm nay.

Như chúng ta đều đã biết, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Thái Nguyên là An toàn khu (ATK) tuyệt mật. Chính vì điều này, ngoài những học viên nhớ được, ít người biết đến, ngay cả các giảng viên thì được điều động đến giảng độc lập theo chủ đề. Từ 1975, việc đắp đập dâng nước của hồ Núi Cốc đã bắt đầu, 20 hộ dân xóm ven sông này chuyển đi, một dải đồi núi cao thành rừng do dân xóm Gốc Mít bảo vệ, canh tác, vị trí của trường còn đó còn tên xóm Bờ Rạ là kỷ niệm đẹp của một thời.

Tấm bia di tích lịch sử cấp Quốc gia nơi tổ chức Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng đã được dựng và là di tích cấp quốc gia thứ 49 của ATK Thái Nguyên.

Và việc ấy diễn ra, Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng xã Tân Thái sẽ không còn là một chuyện sót lại của ATK Thái Nguyên. Không còn là khát vọng, mơ ước đau đáu của 42 học viên mà trong đó chỉ còn 4 người nơi cõi tạm. Còn tôi, 40 năm rồi còn gì!
 
Hữu Minh

Nguồn tin: Theo Nhà báo và Công luận

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây