Đoàn Xuân Hòa có lẽ là một trong số ít in thơ nhất. Cho đến nay, ông mới “trình” 3 tập thơ: Lửa không cần trang phục (1994), Phù sa lắng (2002), Bơi cùng sóng bạc đầu (2017) và một tập Thơ chọn (2018), in chung với nhà thơ đồng hương, đồng đội Vương Cường. Ồn ào trong cách chơi, dù là ồn ào có “chọn lọc”, nhưng thơ, ít xuất hiện.
Đoàn Xuân Hòa quê gốc Quảng Trị nhưng sinh ra và lớn lên trên đất Đô Lương, Nghệ An. Khi còn học phổ thông, anh may mắn là học trò của thầy giáo, sau này là nhà thơ nổi danh Thạch Quỳ. Khi còn sinh viên, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vào giai đoạn quyết định, Đoàn Xuân Hòa nhập ngũ. Thời anh hành quân vào chiến trường là thời gian Chiến dịch Quảng Trị nổ ra. Ngày 27/5/1972, người lính trẻ Đoàn Xuân Hòa lên đường hành quân ra trận. Trong những năm tháng chiến đấu tại đây, nhiều đồng đội của anh đã anh dũng ngã xuống. Năm 1975 sau khi đất nước thống nhất, Đoàn Xuân Hòa ra quân, quay về học tại Đại học Bách khoa Hà Nội. Những tưởng, đất nước đã hòa bình vĩnh viễn, mọi sự đã bình lặng, chẳng ngờ dân tộc cũng như cuộc đời anh thêm một “khúc quanh” đầy thử thách nữa. Năm 1979, khi xảy ra Chiến tranh Biên giới, Đoàn Xuân Hòa tái ngũ. Lần làm lính thứ hai của anh kéo dài thêm 6 năm. Đến năm 1985, anh ra quân khi đang mang quân hàm Thượng úy.
Đối với anh đó là những năm tháng không bao giờ quên “Sống sót qua chiến tranh/ Với cha là đã lãi/ Bao bạn bè nằm lại/ Thay cha làm cỏ xanh”, (Nói với con về tổ ấm). Ít người để ý bài thơ theo “phong cách” đồng dao, nói theo thi pháp là “thơ năm chữ” này của anh. Nó không chỉ có ý nghĩa như một thông điệp về chiến tranh, về hòa bình. Chiến tranh chưa bao giờ là trò đùa. Bạn bè thân thiết với nhà thơ hiểu nó như là một “tuyên ngôn” của anh về lẽ sống: trân trọng ân nghĩa, tình cảm đồng đội; biết sống để không làm “nhòe mờ” quá khứ, không hổ thẹn với đồng đội, đồng chí đã nằm lại trên chiến trường. Thậm chí, dám “chiến đấu” với những điều ngang trái để bảo vệ phẩm giá, lý tưởng của những người đồng đội đã ngã xuống trên chiến hào. Mảng thơ thế sự thời “hậu chiến” của Đoàn Xuân Hòa, có lẽ nên được giải thích bằng nỗi đau lắng mình của nhà thơ.
*
Về thơ Đoàn Xuân Hòa, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng tâm sự, đại ý, cho dù quen biết và chơi với Đoàn Xuân Hòa đã lâu, nhưng vẫn ngỡ ngàng nhận ra Đoàn Xuân Hòa dáng vẻ tươi mới dưới ánh sáng soi chiếu từ con mắt thứ ba, con mắt thơ… Thơ Đoàn Xuân Hòa không phải là tất cả con người anh, dù nó chỉ mới hiện diện một phần thì anh vẫn còn làm ta ngỡ ngàng và bất ngờ hơn nữa.
Đọc thơ Đoàn Xuân Hòa dễ nhận ra anh là “người cả nghĩ”. Anh lo lắng cho hạnh phúc, lo lắng cho xã hội và dành nhiều thương cảm cho những số phận nhọc nhằn, thua thiệt. Với Đoàn Xuân Hòa, Quảng Trị và đồng đội, chiến tranh và người lính luôn là một ký ức lớn. Và từ trong ký ức lớn ấy, anh luôn nhìn nhận ra thân phận con người, cũng lớn không kém. Trong anh, đất nước cụ thể, sinh động. Người mẹ Tổ quốc hiện thân qua từng số phận: “Người đàn bà đội lên đầu/ Những vò đất nung/ Vẹn nguyên hình hài nước/ Dọc miền Trung/ Áo đất vàng cỏ cháy/ Tre trơ xương...” (Người đàn bà đội nước). Bài thơ viết năm 2000, sau khi chiến tranh đã đi qua nhiều năm và là một trong hai bài thơ đoạt giải B cuộc thi thơ 1998-2000 mang tên Chào thế kỷ 21 của báo Văn nghệ. Đoàn Xuân Hòa trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ngay sau giải thưởng thơ này.
Cho đến bây giờ, chiến tranh đã đủ độ lùi cần thiết để ngộ, càng chiêm nghiệm, anh càng thấy ám ảnh. Đoàn Xuân Hòa vẫn nghe “Ú ớ gọi nhau hò hét xung phong/ Đạn như thóc vãi trời sao chi chít/ Ngực bị nén như căn hầm vừa sập/ Tay quạng quờ đêm rụng trắng hai vai” (Đêm ngủ ở Đông Hà). Đó là thân phận của những cựu chiến binh: “Ngày trở trời vết thương cũ quặn đau/ Nhưng không thể đau bằng những đứa con nheo nhóc/ Tiền là đạn bắn chỉ thiên cho các con ăn học/ Những giảng đường học phí tính bằng trâu” (Đồng đội tôi ra trận thời bình)… Rồi “Đá mồ côi rụng xuống biển Đông/ Thay đầu chị ngàn lần mang tội chết/ Tình yêu viển vông chị đâu có biết/ Lông ngỗng trắng đường, tang tóc sau lưng” (Đêm Mỵ Châu). Đó hẳn không phải là câu chuyện tình yêu, mà là câu chuyện thế sự, câu chuyện vận mệnh.
Đó còn là thân phận của những em gái thời kinh tế thị trường: “Chiều sông Tiền chưa lặng gió mưu sinh/ Lá vé số rải dày mặt đất/ Làm mát xa chuyển dịch nghề tầm quất/ Em nghĩ gì/ Mênh mang, mêng mang…” (Em có về sông Hậu). Sự ám ảnh luôn thôi thúc làm trăn trở trái tim nhà thơ về người, cuộc sống của thời hậu chiến. Không từ phía quân thù, Đồng đội tôi ra trận thời bình, Người đàn bà đội nước, Đêm Mỵ Châu, Nàng Tô Thị xuống núi, Lời rao than tổ ong, Rừng Yên chừng đã... là những bài thơ ấn tượng, gây xúc động.
...
Có bóng quạ thoáng qua
Trên biệt thự kẻ lấy gạch từ nghĩa trang liệt sỹ
Lòng tôi lại một lần rỉ máu
Vết thương không từ phía quân thù
(Không từ phía quân thù)
Trăn trở với quá khứ, dấn thân vì hiện tại và khát vọng gửi tương lai, nên Đoàn Xuân Hòa nâng niu, đau đáu phận người. Con người quê kiểng nhẫn nại và chất phác, vô tư và hồn hậu, cật vật kiếm sống. Họ làm ta xúc động đến xót xa: “Ai mua than tổ ong đây!/ Những tổ ong không mật/ Lời rao cong dáng lưng gò gập/ Bánh xe lăn nghiêng ngả thị thành” (Lời rao than tổ ong). Những câu thơ như có góc cạnh, xù xì, sắc bén cứa vào trái tim người đọc. Tình thương ứa máu chảy tràn ra ngoài thành câu chữ.
Đoàn Xuân Hòa cũng có những bài thơ viết về miền Trung hết sức gan ruột. Thì anh quê miền Trung mà, không lẫn vào đâu được. Thơ anh có chất hào sảng của núi rừng và dạt dào của biển cả. Có thể nói trong số những bài thơ sáng tác về miền Trung thành công, với những giọng thơ mang đầy bản sắc của một vùng đất, bên cạnh Trầm Tích của nhà thơ Hoàng Trần Cương vừa quá cố, bên cạnh nhà thơ Trần Mạnh Hảo với hai tuyệt tác Sông Lam và Gió Ngàn Hống dành cho xứ Nghệ, Đoàn Xuân Hòa có mặt với thi phẩm Một khúc miền Trung:
...
Tôi đi dọc con đường gió Lào thổi ngang lưng
Một nửa mình hun màu đồng đỏ
Một nửa mình xanh gió trùng khơi
Một nửa con đường cát tung lửa về trời
Một nửa con đường rừng hứng vào trưa nắng
Một nửa dòng sông chất đầy sấm biển
Một nửa dòng sông mọng mưa rừng Tây
(Một khúc miền Trung)
Đó là nơi có vẻ đẹp bình dị, khao khát và khác biệt: “Biển tròn xanh như một trái dừa đầy/ Núi đứng ngắm nghìn năm khao khát quá/ Bông hoa nở lặng thầm bên vách đá/ Tiếng chim chuyền trong kẽ lá lanh chanh”; “Gió thổi ngược thời gian những câu thơ vạn thở/ Tứ thơ bay dìu dặt ở lưng đèo”. Miền Trung, nơi có bố, mẹ “Gương mặt cha sạm những cù lao nổi”, có biết bao thế hệ đã hy sinh dâng hiến “Đồng đội tôi gửi thịt xương mình/ Ngày giữ chốt máu tưới bầm mặt cát”. Đó cũng là “Tổ quốc ở trong tôi”, thiêng liêng như máu thịt… Phải yêu quê hương đến thế nào, Đoàn Xuân Hòa mới có những thi ảnh “đắt”, có một không hai như thế về miền Trung. Có yêu cuộc sống hiện tại đang thanh bình đến như thế nào, Đoàn Xuân Hòa mới có những câu thơ thảng thốt giật mình vì quá khứ đến như vậy. Tất nhiên, có lo âu trước những điều bất thường của hiện tại như thế nào, nhà thơ mới “lăn xả” vào cuộc sống mới có những câu thơ thế sự ám ảnh.
Đoàn Xuân Hòa là thế, không bàng quan, mũ ni che tai, mặc dù trên chính trường, anh từng làm đến chức Phó Cục trưởng một Cục chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; trong đời sống nơi khu dân cư hay thi đàn đều thế. Nhà thơ Vương Cường, bạn cùng quê, cùng nhập ngũ, đặc biệt hơn, cùng tham gia Chiến dịch Thành cổ 81 ngày đêm của mùa hè đỏ lửa 1972 ở Quảng Trị, từng nói với tôi: “Mình thấy thơ Đoàn Xuân Hòa vẫn hay vướng vào thế sự…”. Nhưng anh là thế, dù là thơ, anh vẫn thể hiện trách nhiệm của mình với cuộc sống. Và cũng vì thế mà trong toàn bộ tác phẩm của Đoàn Xuân Hòa, mảng “thơ đau” vẫn hiển hiện, găm vào lòng nhói buốt.
Tất nhiên, mảng thơ này cũng góp phần hoàn thiện nên “chân dung” thơ Đoàn Xuân Hòa: lãng mạn và trách nhiệm. Chính vì điều này, thơ Đoàn Xuân Hòa mang nhiều dấu ấn của lớp nhà thơ thời hậu chiến. Ngôn ngữ, thi pháp của những nhà thơ thời hậu chiến. Nói một cách khác, thì Đoàn Xuân Hòa luôn biết “làm mới” những điều tưởng cũ. Nói thơ anh là tiếng thơ dễ tìm ra sự đồng điệu của cảm xúc là vì như thế.
*
Đoàn Xuân Hòa không chỉ giàu phẩm chất thi sĩ trong thơ mà trong cuộc sống, anh cũng thể hiện sự đam mê và dấn thân đến tận cùng như vậy. Anh có cách giao đãi, sống với bạn bè đầy “chất thi sỹ”. Đẹp, tinh khiết và dâng hiến. Anh nâng niu tình cảm, thủy chung với bạn bè. Còn nhớ lần anh rời Hà Nội từ lúc 3 giờ sáng, vào Nghệ An, dự định ban đầu là dự lễ khánh thành tư gia của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, nhưng không may, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đột quỵ, buổi tân gia thành cuộc viếng thăm người bệnh. Lại có lần anh nhảy xe đò vào Nghệ dự lễ ra mắt Tuyển thơ Thạch Quỳ, tan cuộc lại nhảy tàu ra Hà Nội ngay trong đêm đó. Bữa ấy, rất nhiều tham luận, nhưng người yêu thơ xứ Nghệ ấn tượng với “tham luận vo” của Đoàn Xuân Hòa. Trong khuôn viên của Lễ ra mắt, người ta thấy Đoàn Xuân Hòa nói về thơ của thầy dạy học của anh, nhà giáo Vương Đình Huấn, tức nhà thơ Thạch Quỳ, với một tình cảm tri ân, rưng rức xúc động. Hai thầy trò, hai nhà thơ ôm nhau trên sân khấu sau khi Đoàn Xuân Hòa phát biểu xong là một hình ảnh đẹp của tình thầy trò và tình thi hữu.
Cổ nhân để lại lời dạy “Văn học là nhân học”. Nhưng ngẫm cho cùng, văn thơ chỉ là một phần của người, phần hồn, phần tinh túy của tâm hồn. Tất nhiên có thơ hay và thơ không hay, cái đó lại còn thuộc tài năng của mỗi người. Đoàn Xuân Hòa đã cho người đọc nói chung và bạn yêu thơ nhận diện ra thêm một phần “tinh túy”, khác biệt. Hơn 15 năm trước, nhà thơ xuất bản một tập thơ có một cái tên ấn tượng: Lửa không cần trang phục. Ai đã đọc tập thơ này, và các tập thơ gần đây của anh, như Bơi cùng sóng bạc đầu hay Thơ chọn, (in chung với Vương Cường) sẽ càng hiểu thêm con người nhà thơ Đoàn Xuân Hòa, và thêm một lần khẳng định: “Thơ là người”. Lửa đẹp ở sự thật, mang lại cảm xúc từ sự thật, “không cần trang phục”, phấn son.
Tác giả: Ngô Đức Hành
Nguồn Văn nghệ số 32/2020