Tương Bần – Hương vị trăm năm, tiềm năng du lịch làng nghề Hưng Yên

Thứ tư - 30/07/2025 15:56
Nói đến Hưng Yên, nhiều người nghĩ ngay đến nhãn lồng ngọt lịm, những đền chùa cổ kính hay vùng đất Phố Hiến từng một thời “thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Nhưng còn một hương vị khác cũng gắn liền với vùng đất này – đó là tương Bần, thứ gia vị dân dã nhưng đã tồn tại hàng trăm năm, trở thành một phần văn hóa ẩm thực vùng đồng bằng Bắc Bộ.
tuong ban 2
Tương Bần Hưng Yên đã có hàng trăm năm .
Làng nghề trăm năm giữ hồn vị quê

Làng Bần, phường Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên) có nghề làm tương từ hơn 700 năm trước. Tương truyền, từ thế kỷ XIII, tương Bần đã là sản vật tiến vua thời Trần. Đến đầu thế kỷ XX, sản phẩm này mới thực sự nổi danh, trở thành đặc sản được mua bán rộng rãi khắp miền Bắc.

Đi dọc những con ngõ nhỏ của làng Bần hôm nay, vẫn dễ dàng bắt gặp hình ảnh những chum tương sành xếp hàng dài trước sân, mùi thơm nồng đậm đặc trưng phảng phất trong gió. Mỗi chum tương là cả công sức của người thợ trong nhiều tháng trời “một nắng hai sương” đúng nghĩa. Và giữa không gian đậm màu thời gian ấy, gia đình ông Ngô Xuân Triệu là một trong số ít những cơ sở vẫn gìn giữ nghề theo quy mô truyền thống lâu đời.
tuong ban 3
Mỗi chum tương là cả công sức của người thợ trong nhiều tháng trời “một nắng hai sương” đúng nghĩa.
Gia đình 5 đời làm tương – giữ nghề như giữ ký ức

Ông Ngô Xuân Triệu năm nay 84 tuổi, là đời thứ tư của gia đình có 5 thế hệ nối nghiệp làm tương. Vốn là bộ đội về hưu, ông từng làm nhiều nghề trước khi quyết định quay về với hương vị quê hương vào năm 1984. Ông Triệu kể lại: Ngày ấy, nghề làm tương khó lắm. Hàng hóa khan hiếm, bán ra không dễ. Chỉ đến khi đất nước đổi mới, kinh tế mở cửa, cơ sở mới có điều kiện mở rộng.

Cơ sở của ông hiện có khoảng 1.500 chum tương, nhiều chum đã gắn bó vài chục năm. Khác với sản xuất công nghiệp, làm tương Bần chuẩn vị đòi hỏi sự cầu kỳ ngay từ nguyên liệu: gạo nếp cái hoa vàng thơm dẻo, đỗ tương hạt nhỏ ruột vàng trồng ở đất bãi, muối biển Hải Hậu mặn mòi, nước giếng Đanh trong lành. Chum phải là loại chum sành của Nho Quan (Ninh Bình), còn nắp đậy lại lấy từ làng Thổ Hà (Bắc Giang).
tuong ban 4 1
Nghề vất vả, đòi hỏi sự kiên nhẫn và yêu nghề.
Mỗi công đoạn đều tỉ mỉ. Đỗ tương được rang chín, xay nhuyễn rồi ngâm một tuần. Gạo nếp đồ thành xôi vừa chín tới, không nát, không sống. Xôi được ủ để lên mốc trắng, rồi vàng hoa hòe trước khi “ngả tương” – trộn với đỗ, muối theo tỷ lệ chuẩn mực. Tương sau đó được phơi nắng liên tục từ 3–4 tháng: “Nắng càng to, tương càng vàng óng, dậy mùi thơm. Thiếu nắng, tương sẽ sậm màu, kém sánh và lâu ngấu,” ông Triệu chia sẻ bí quyết cha ông truyền lại.

Nghề vất vả, đòi hỏi sự kiên nhẫn và yêu nghề. Ông Triệu bảo: “Cái chum tương không chỉ là kế sinh nhai. Nó nuôi sống cả gia đình tôi, nuôi các con ăn học thành tài. Dù vất vả đến mấy, tôi vẫn quyết tâm giữ nghề cha ông.” Hiện các con và cháu ông – thế hệ thứ năm, đã bắt đầu tiếp nối, thổi thêm hơi thở mới vào làng nghề truyền thống.

Tương Bần – không chỉ là gia vị

Không phải ngẫu nhiên mà tương Bần nổi tiếng khắp cả nước. Vị tương đậm đà, thơm ngậy từ gạo nếp, đỗ tương quyện trong mùi nắng, mùi đất đã trở thành linh hồn của nhiều món ăn dân dã: từ chấm rau luộc, kho cá, kho thịt đến làm nước chấm bún, phở. Trong ký ức của nhiều người con xa quê, chỉ cần chén cơm trắng với chút tương Bần cũng đủ gợi về mâm cơm gia đình ngày cũ.
tuong ban 5
Đỗ tương là nguyên liệu chính để nấu tương bần (đỗ tương hạt nhỏ ruột vàng trồng ở đất bãi). 
Ngày nay, sản phẩm của gia đình ông Triệu đã phân phối đi khắp cả nước, có mặt trong nhiều siêu thị, nhà hàng và thậm chí xuất khẩu ra nước ngoài. Không chỉ là một món ăn, tương Bần còn là “câu chuyện văn hóa” về sự khéo léo, tinh tế và cần cù của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ.

Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề

Hiện làng Bần còn khoảng 17 hộ giữ nghề, phần lớn quy mô nhỏ lẻ. Một số cơ sở lâu đời như nhà ông Triệu đã phát triển lớn hơn, kết hợp yếu tố thủ công truyền thống với cải tiến máy móc để tăng năng suất mà vẫn giữ hồn vị.

Nhận thấy giá trị văn hóa – kinh tế của sản phẩm, tỉnh Hưng Yên đang định hướng xây dựng làng nghề tương Bần trở thành điểm đến du lịch. Du khách có thể tham quan xưởng, trải nghiệm từng công đoạn làm tương, nghe câu chuyện về nghề và thưởng thức các món ăn gắn liền với đặc sản này. Khi kết hợp cùng du lịch văn hóa – tâm linh của vùng Phố Hiến, tương Bần hoàn toàn có thể trở thành thương hiệu du lịch ẩm thực đặc sắc của miền Bắc.

Việc phát triển du lịch gắn với các sản phẩm ẩm thực: tương Bần, gà Đông Tảo, nhãn Lồng, sen Hưng Yên… không chỉ giúp quảng bá sản phẩm địa phương mà còn góp phần bảo tồn nghề truyền thống trước sức ép của thị trường hiện đại. Mô hình này nếu được đầu tư đồng bộ, từ cơ sở hạ tầng, dịch vụ đến truyền thông, có thể mở ra hướng đi bền vững cho cả làng nghề.

Giữ nghề để giữ hồn quê
tuong ban 1
Tương bần khi ngấu thì sẽ được đi đóng chai rồi đem bán.
Đứng bên những chum tương vàng óng, ông Triệu trầm ngâm: Ngửi mùi tương là tôi như nghe tiếng cha ông. Giữ nghề cũng là giữ một phần ký ức quê hương. Lời ông như đúc kết tâm nguyện của bao thế hệ người làng Bần – những người đã và đang miệt mài để một hương vị quê vẫn còn mãi với thời gian.

Từ những chum sành giản dị trong sân nhà, tương Bần không chỉ làm phong phú bữa cơm Việt mà còn mở ra tiềm năng để Hưng Yên ghi dấu trên bản đồ du lịch ẩm thực. Một món ăn dân dã, một làng nghề trăm năm, một câu chuyện văn hóa – đó chính là giá trị mà tương Bần đang mang theo, nối quá khứ với hiện tại và hướng đến tương lai.

 
NLBHY

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây