Càng trong thời toàn cầu hóa, văn nghệ sỹ càng được coi trọng, vì ngoài trách nhiệm bồi dưỡng cái thiện, cái đẹp, tình yêu thương, làm phong phú thêm đời sống tinh thần, họ còn là cầu nối, là sứ giả giữa các quốc gia. Ở kỷ nguyên khoa học phát triển mạnh mẽ, công nghệ có thể làm thay, làm giỏi hơn con người, để “làm cân bằng” đời sống đang có nguy cơ bị “số hóa”, chỉ có thể nhờ đến văn học nghệ thuật. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định “văn hóa còn dân tộc còn” cũng là một cách gián tiếp đề cao vai trò cực kỳ quan trọng của các chủ thể sáng tạo văn hóa.

Lý thuyết nghệ thuật hiện đại quan niệm tác phẩm là một mô hình thống nhất nhưng không đồng nhất với cuộc sống. Mô hình ấy là “cuộc sống thứ hai”, chỉ có thể được kiến tạo bởi người nghệ sỹ có tư tưởng riêng, giàu có tài năng, dồi dào vốn sống, sắc sảo cá tính. Nghệ sỹ vẫn là con người trong cuộc đời thực, phải sinh hoạt, học tập, quan hệ xã hội…, thế nên họ phải sống, phải “đi, về” giữa hai thế giới, thế giới của đời thực và thế giới trong tưởng tượng với bao những nhân vật, hình tượng, chi tiết... Người ta hay dùng các từ “phân thân”, “hóa thân”, “nhập thân”… khi nói về quá trình sáng tạo là do vậy. Tâm lý học nghệ thuật cho rằng nghệ sỹ dễ sa vào tình trạng đa nhân cách, thất thường, dễ ảo tưởng, hay xúc động, cực đoan,… Cá tính sáng tạo nếu không được điều chỉnh sẽ như con ngựa hoang hiếu chiến hiếu thắng - gọi đúng thì đó là “chủ nghĩa cá nhân” ích kỷ, tự phụ, tự cao, nổi loạn, phá phách... Đây sẽ là điểm yếu khi có người thiếu bản lĩnh, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, dụ dỗ, lôi kéo, lừa gạt… Nếu nghệ sỹ không tỉnh táo, nhà quản lý lại nhìn nhận đơn giản, một chiều sẽ dễ đẩy vấn đề càng đi về phía tiêu cực, có hại… Trong khi đó, quy luật tồn tại và phát triển của văn học nghệ thuật là quy luật của cái riêng, cái đơn nhất với cơ sở gốc là cá tính sáng tạo mà sự hình thành của nó, ngoài năng khiếu chủ quan còn là sự may mắn hội tụ tinh hoa của thời đại, vùng văn hóa, cuộc sống, nghề nghiệp... Đóng vai trò then chốt trong việc làm ra tác phẩm, khi kết tinh thành tài năng, cá tính sáng tạo lại trở về hòa nhập với đời sống. Như những hạt lúa vào mẩy luôn có xu hướng trĩu về phía gốc, những sáng tác của họ thường hướng về cái nôi đời sống nhân dân. Những Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh… là rất tiêu biểu. Thế nên tài năng văn học nghệ thuật luôn là tài sản quý giá của dân tộc. Để có một tài năng như vậy là lâu dài, khó khăn, còn là sự may mắn nữa!
Sứ mệnh của nghệ thuật chân chính, ngoài sáng tạo cái đẹp, còn phải viết về cái xấu để người đọc hiểu mà tránh xa nó, tiêu diệt nó. Nghệ sỹ luôn sống trong cái tôi cô đơn, cô đơn để suy ngẫm, để tưởng tượng không chỉ về cái tốt, tích cực mà cả về cái xấu, cái thấp hèn, tiêu cực. Có khi vì sống quá sâu với nhân vật mà có nghệ sỹ phát ngôn không phải cho cá nhân mình mà nói thay cho nhân vật (xấu), nên dễ gây ngộ nhận. Trường hợp này rất cần sự thông cảm, thể tất. Nhưng khi cái tôi bị đẩy đến cực đoan, vượt ngưỡng, thì hạn chế của một vài nghệ sỹ là quá đề cao cá nhân, cho mình là nhất rồi coi thường, coi rẻ sản phẩm nghệ thuật cũng như nhân cách đồng nghiệp. Thế là dẫn tới quan hệ “cánh hẩu” khen vống những ai hợp mình, vùi xuống bùn kẻ khác mình, có khi “không được ăn thì đạp đổ”. Nguy hiểm hơn, có người như vậy lại là thành viên trong hội đồng tuyển chọn, xét duyệt, chấm thi… sẽ dẫn tới sự thiếu công bằng, gây ra dư luận không tốt…Với họ sự khen chê chẳng qua cũng vì sự thỏa mãn, để làm nổi bật cá nhân mình. Nguyên nhân của trường hợp này, ngoài sự quá lớn của cái tôi, còn do ít hiểu biết về sự mênh mông vô tận của tri thức nhân loại. “Ếch ngồi đáy giếng” là thế, chỉ nhìn thấy bầu trời bằng cái miệng giếng mà thôi! Đúng ra, hơn mọi giai tầng khác, văn nghệ sỹ phải là những người chịu khó học tập, lao động nhiều nhất, am hiểu nhiều nhất, có vậy mới sáng tạo ra được một “cuộc sống thứ hai” sống động, giàu có ý nghĩa.
Thời nay, hầu hết văn nghệ sĩ biết sử dụng mạng xã hội, lấy đó làm phương tiện kết nối, đọc tư liệu, công bố tác phẩm… Mà mạng xã hội thì rất khó kiểm soát. Một số người, có thể do dồn nén ẩn ức cá nhân, do nông nổi, do bị lôi kéo… mà có những phát ngôn sai trái. Căn bệnh suy diễn chủ quan vốn có ở một vài nghệ sĩ, lại bị một vài kẻ xấu lợi dụng phát tán, cố ý thêm thắt, phức tạp hóa tạo nên dư luận tiêu cực. Rồi chuyện chạy giải thưởng, chạy danh hiệu, chạy hội viên... Một cuộc gọi điện thoại xin xỏ… Những cuộc gặp gỡ… Có cả “ngã giá”! Bao nhiêu kẻ “chạy” sẽ có bấy nhiêu cách “chạy”, vẻ “chạy”…! Đáng buồn và đáng phê phán hơn, khi có người không đạt như ý, lập tức viết thư nặc danh bịa đặt, vu cáo cấp trên, vu cáo đồng nghiệp!
Triết học liên văn hóa (The Intercultural Philosophy) mới nhất quan niệm nhà nghệ sỹ phải như cây xanh cắm sâu bộ rễ khỏe mạnh vào các mảnh đất văn hóa dân tộc, văn hóa nhân loại và đời sống đương đại rồi vươn lá cành quang hợp ánh sáng lý tưởng của bầu trời hòa bình mà kết những trái cây có hương vị tư tưởng riêng. Chiểu theo ý này, ngoài sự cần cù tích lũy tri thức, vốn sống, nghệ sỹ phải luôn trau dồi tư tưởng, quan điểm lập trường cách mạng. Đây cũng chính là một tiền đề sáng tạo vì tư tưởng sẽ đẻ ra ý tưởng và kích hoạt cảm hứng. Xét về bản chất, hình tượng nghệ thuật luôn là sự cụ thể hóa, vật chất hóa của tư tưởng. Một cô Kiều là hiện thân của tư tưởng Nguyễn Du. Đi ngược lại hoặc mơ hồ, nhầm lẫn con đường tư tưởng làm sao có thể tạo ra hình tượng đúng đắn, chân chính? Cũng dễ hiểu có nghệ sỹ tài năng trong quá khứ nhưng do bị chi phối của cái tôi cá nhân mà ngày một tách xa lợi ích nhân dân, khư khư tự ôm cái quan niệm cực đoan, ích kỷ, độc đoán không chịu mở lòng hòa cùng anh em đồng chí, cùng lo, cùng vui với số phận đất nước, cứ muốn đi riêng, thậm chí đi ngược… Vì vậy, bên cạnh sự tôn trọng tự do sáng tạo, cần phải đặc biệt quan tâm việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị cho văn nghệ sỹ. Văn học nghệ thuật là vấn đề tư tưởng. Cây xanh không được quang hợp ánh sáng, lá cành sẽ bị héo và quả sẽ sài đẹn. Nghệ sỹ cũng như cây xanh vậy. Lịch sử nghệ thuật chứng minh các nghệ sỹ lớn luôn tự do sáng tạo theo một xu hướng, trường phái nhất định. Ở ngày hôm nay, sáng tạo theo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là sáng tạo theo tinh thần nhân văn, tiến bộ nhất, hoàn toàn phù hợp với quy luật tư tưởng và tình cảm của nghệ thuật. Sáng tạo vì nước vì dân, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ, giàu mạnh là nguyên lý mỹ học, là chân lý nghệ thuật, là đạo lý cuộc sống. Tư tưởng sẽ chuyển hóa để rồi trở thành máu thịt tác phẩm. Để có tư tưởng phải là quá trình lâu dài, từ thấu hiểu (nhận thức) sâu sắc cuộc đời đến trao gửi niềm thấu cảm (tình cảm) vào hình tượng rồi truyền cảm (tác động nghệ thuật) để cùng đồng cảm (tri âm, lan tỏa) tới đối tượng tiếp nhận.
Văn hóa là bộ mặt, là tài sản tinh thần của dân tộc. Các bộ môn nghệ thuật có nhiệm vụ làm giàu có thêm tài sản ấy bằng cách kiến tạo và kiến giải các mã văn hóa. Để làm tốt điều ấy, người nghệ sỹ không thể không hiểu sâu văn hóa dân tộc. Chỉ có thể trên nền tảng truyền thống người nghệ sỹ mới có thể cất cánh bay vào bầu trời văn minh thế giới để tiếp nhận cái mới. Chưa có vốn truyền thống đã vội tiếp thu cái ngoại lai, những hiện sinh, hiện đại, hậu hiện đại… nọ kia, sớm muộn sẽ như cây không có gốc vững mà ngả nghiêng, đổ gẫy. Lời dạy của Bác Hồ phải coi là vàng ròng về bài học sáng tạo: “Làm công tác văn nghệ mà không tìm hiểu sâu vốn của dân tộc thì không làm được đâu” (Nhiều tác giả - Bác Hồ với văn nghệ sỹ. Nxb Văn học, 1995, tr 83). Trên hiểu biết ấy, xin kiến nghị các cơ quan hữu trách có kế hoạch tổ chức các lớp học thường xuyên, định kỳ bồi dưỡng tinh hoa nghệ thuật truyền thống cho văn nghệ sỹ, trước mắt là phát huy giá trị, lan tỏa các bài viết giới thiệu chuyên sâu của các trang website về văn hóa, nghệ thuật, nhất là văn hóa, nghệ thuật truyền thống riêng để những ai quan tâm học tập, tiếp thu, trau dồi!
PGS.TS NGUYỄN THANH TÚ
Nguồn: Đặc san Người làm báo Hưng Yên số Xuân Ất Tỵ 2025