Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đâu chỉ có tài văn chương…

Thứ tư - 01/04/2020 21:21
Đoàn Thị Điểm, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, người làng Giai Phạm, xã Giai Phạm, huyện Yên Mĩ. Bà sinh năm 1705, mất năm 1748, thọ 44 tuổi. Hồng Hà nữ sĩ là một trong những nhà thơ nữ tài hoa nhất thời. Bà đối đáp giỏi, dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn hay, và là người phụ nữ đầu tiên của Việt Nam viết truyện rất đặc sắc. Về tài văn thơ, cũng như tài đối đáp của bà đã có nhiều người viết. Nhưng bà còn là một phụ nữ yêu nước và có tầm nhìn của một chính trị gia, đồng thời bà là một phụ nữ xinh đẹp, đức hạnh, hiếu nghĩa tiêu biểu.
111
Tầm nhìn của một chính trị gia khi bàn về cách xây dựng đất nước – “Thập kệ minh sách”

Hồng Hà nữ sĩ sinh ra trong một gia đình nho học. Cha bà đỗ cử nhân, còn anh trai bà đỗ tiến sĩ, đứng đầu hàng tỉnh. Bà từng nghe và chứng kiến thời cuộc đời vua Lê chúa Trịnh rối ren tranh giành quyền binh. Cuộc chiến huynh đệ chúa Trịnh đàng Ngoài và chúa Nguyễn đàng Trong không phân thắng bại. Rồi các cuộc khởi nghĩa xảy ra ở nhiều nơi... Trong bối cảnh nội chiến tương tàn, dân đen kẻ chết trận, kẻ tha phương, Đoàn Thị Điểm mơ về một đất nước thịnh trị với vua sáng tôi hiền. Đấy là tấm lòng thương dân thương nước của bà mà không nhiều văn sỹ đương thời nghĩ thấu, nhất lại là phận đàn bà con gái. Thời của bà thì người phụ nữ thường chú trọng vào nữ công gia chánh và “công dung ngôn hạnh”. Có mấy người phụ nữ dám bàn việc nước? Nhưng bà Đoàn Thị Điểm đã vượt lên những ràng buộc của thể chế quân vương bảo thủ để có tầm suy nghĩ như một chính trị gia, bàn việc dân việc nước. Bà mượn lời nhân vật nữ chính trong truyện “Hải khẩu linh từ” (Đền thiêng cửa bể) - nàng Bích Châu để dâng lên vua 10 điều  xây dựng đất nước. Trong tập truyện Truyền kỳ tân phả, NXB Trẻ, trang 46, dòng 6 từ trên xuống, Đoàn Thị Điểm viết: “Kẻ tiện thiếp tên là Bích Châu lúc còn nhỏ ở nơi nghèo hèn, khi lớn lên được vào cung cấm, chứa chan thưởng tứ, đằm thắm thương yêu, dám đâu sánh với người nam tử; trút trâm gài Khương Hậu tiến lời can đứng trước đình thần. Bày tỏ mười điều, băn khoăn tấc dạ: Một là năng giữ cội gốc của nước, trừ hà bạo thì lòng người yên vui. Hai là giữ nếp cũ, bỏ phiền nhiễu thì kỷ cương không rối. Ba là nén kẻ quyền thần để ngăn ngừa chính sự mọt nát. Bốn là thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ đục khoét của dân. Năm là xin cổ động Nho phong, khiến cho lửa bó đuốc cùng mặt trời soi sáng. Sáu là mở đường cho người nói thẳng để cho cửa thành cùng với lời can gián đều mở toang. Bảy là cách kén quân cần chọn người dũng lược hơn là cao lớn. Tám là chọn tướng  trước cần người thao lược, sau mới căn cứ vào thế gia. Chín là khí giới quý ở sắc bén không chuộng hình thức. Mười là trận pháp cốt cho chỉnh tề cần chi điệu múa. Mười điều kể trên, rất là thiết thực, phơi bày tấm lòng trung, mong được bề trên xét. Hay tất làm, dở tất bỏ, vua nghĩ đến chăng? Nước được trị, dân được yên, thiếp mong lắm vậy!”

10 điều mà Đoàn Thị Điểm bàn cách đây gần 300 năm dường như còn nhiều giá trị và cả tính thời sự. Bà dặn: phải dẹp bỏ cái xấu và giảm các thủ tục luật lệ hà khắc trong xã hội; phải trừ tệ tham nhũng đục khoét dân; phải tránh sự chuyên chế đặc quyền, đặc lợi cùng không được cất nhắc nếu chỉ vì đó là bè cánh con ông cháu cha; phải nghe lời nói thẳng chứ không nghe lời xu nịnh... Đây là tầm nhìn của một chính trị gia nặng lòng thương nước thương dân, khác với những suy nghĩ của giới văn thơ đương thời, cũng như  nhân sinh quan thường thấy của các nhà văn nhà thơ trong những giai đoạn trước và sau đó. Bà lấy tên dòng sông Hồng - Một trong những con sông lớn nhất của Việt Nam đặt tên cho mình cũng là thể hiện ước vọng và tinh thần cùng sự tự tin của bản thân. Đó là sự gắn bó thân thuộc với dân tộc và đồng bào của mình. Cuộc đời bà quả thật đã như là dòng sông đỏ nặng phù sa, tưới mát cho thân phận biết bao người.

Nền văn học Việt Nam trong khoảng ba trăm năm từ thế kỷ từ thế kỷ 16 đến thế kỉ 18 với các tác giả nổi tiếng như Nguyễn Dữ (không rõ năm sinh năm mất, tương truyền ông cùng thời với Mạc Đăng Dung, mà Mạc Đăng Dung sinh 1483, mất năm 1541) có “Truyền kỳ mạn lục - Người con gái Nam Xương”, Đặng Trần Côn (1710- 1745) với “Chinh phụ ngâm”, Nguyễn Gia Thiều (1721-1798) với “Cung oán ngâm khúc”, Hồ Xuân Hương (1772-1822) có nhiều bài thơ giễu đời, Nguyễn Du (1766-1820) với kiệt tác “Truyện Kiều”, Bà huyện Thanh Quan (1805- 1848) có nhiều bài thơ đẹp như những bức tranh... Các tác giả văn học giai đoạn này thường gửi gắm tâm sự của mình vào tác phẩm, thể hiện tình thương đối với đồng loại, nêu ra những nỗi cơ cực mà nhân quần phải chịu đựng... Còn Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm thì rõ ràng hơn: bà muốn thay đổi chính sự, bà thấy cần phải trừ bỏ hà lạm cùng tệ đục khoét nhân dân. Đó là tiếng nói của một nhà chính trị yêu nước. Giống như Trần Hưng Đạo (1228-1300) từng căn dặn: Muốn giữ nước lâu dài thì phải khoan thư sức dân. Hay như Nguyễn Trãi (1380- 1442) dạy: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân...

Một phụ nữ đức hạnh tiêu biểu

Thời trẻ, bà Đoàn Thị Điểm nổi tiếng thông minh, nhan sắc. Người đương thời khen là: “Dung sắc kiều lệ, cử chỉ đoan trang, lời nói văn hoa, sự làm lễ độ”.  Năm bà 16 tuổi, bà lên kinh thành và ở với cha nuôi là thượng thư bộ Hình, Bồi tụng (Phó Tể tướng) phủ chúa Trịnh - Lê Anh Tuấn. Lúc này, người cha nuôi có ý định tiến cử bà cho chúa Trịnh, nhưng bà khéo léo và kiên quyết từ chối. Sau đó, bà rời Thăng Long về ở với cha tại làng Giai Phạm huyện Yên Mĩ. Cha bà là Đoàn Doãn Nghi đậu cử nhân nhưng không ra làm quan mà ở quê mở trường dạy học và bốc thuốc chữa bệnh. Có tài liệu nói gia đình bà về dạy học tại Kiến An, Hải Phòng. Việc đi xa thế này có thể là do thân phụ, thân mẫu của bà không để cho nhà chúa biết được tung tích của bà (?). Anh trai bà là Đoàn Doãn Luân học giỏi thi đậu giải nguyên, cũng không ra làm quan mà nối nghiệp cha dạy học và làm nghề thuốc. Bà cũng theo nghề của cha và anh.
111
Bà giáo nổi tiếng đất Thăng Long 280 năm trước
Thời của bà, có mấy ai đủ sự sáng suốt và dũng cảm để từ chối làm cung phi của chúa Trịnh?  Một bước lên đỉnh cao của giàu sang phú quý cùng quyền lực. Trong lịch sử nghìn năm, liệu có người con gái nào, hay có gia đình nào lại dám khước từ cơ hội lấy vua lấy chúa? Thế mà Hồng Hà nữ sĩ đã làm chuyện đó. Chắc chắn bà phải kín đáo và khôn khéo lắm mới không làm trái ý chúa Trịnh.

Không có tài liệu nào nói bà từ chối làm vợ chúa vì lý do gì? Có thể nêu ra những giả thuyết để Đoàn Thị Điểm không lấy chúa Trịnh: Thứ nhất,  bà không tham giàu sang quyền lực; Thứ hai, bà ghê sợ những tội ác trong cung cấm thời vua Lê chúa Trịnh; Thứ ba, bà thấy cuộc hôn nhân không “môn đăng hộ đối”... Dù gì đi nữa, việc không đồng ý làm vợ Chúa đã thể hiện được ý chí và phẩm hạnh của bà.

Một số người tìm đến bà, nhưng bà chưa nhận lời ai. Năm bà ngoài 20 thì cha bà mất. Bà cùng anh phụng dưỡng mẹ già. Ít lâu sau, anh trai bà cũng mất sớm (Đoàn Doãn Luân mất năm 1735), để lại chị dâu cùng đàn con nhỏ. Lo liệu tang lễ cho anh trai xong, bà trở về làng Vô Ngại huyện Đường Hào, nay là làng Vô Ngại xã Ngọc Lâm, huyện Mĩ Hào - Nơi anh trai bà dạy học và bốc thuốc, thay anh nuôi mẹ già cùng các cháu và chị dâu bệnh tật. Người theo học bà rất đông. Học trò của bà có người đỗ đạt cao. Thời gian này, bà viết tập truyện “Truyền kỳ tân phả” gồm 6 truyện chủ yếu ca ngợi những vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam.

Năm bà 37 tuổi, bà nhận lời lấy Nguyễn Kiều - Một tiến sỹ nổi tiếng hay chữ, và cũng nổi tiếng là vị quan thanh liêm, đã góa vợ. Nguyễn Kiều lúc này đã 47 tuổi và giữ chức vụ Tả thị lang bộ Binh (tương đương với chức Thứ trưởng ngày nay). Mối tình của Tiến sỹ Nguyễn Kiều với Hồng Hà nữ sĩ cũng rất nên thơ. Trước đó Nguyễn Kiều đã lấy con gái đại thầnThượng thư bộ Binh Lê Anh Tuấn, mà Thượng thư Lê Anh Tuấn là cha nuôi của bà. Người vợ đầu mất sớm, Nguyễn Kiều đi bước hai với con gái đại thần Thượng thư bộ Hộ Nguyễn Quý Đức. Bà này cũng sớm qua đời. Một thời gian sau, Nguyễn Kiều mới nhờ người mai mối đến thi sỹ họ Đoàn. Ban đầu bị từ chối, ông không nản, tiếp tục qua lại. Cuối cùng, trong một bức thư chính thức cầu hôn, ông khẩn khoản trình bày: “Tôi rất bận việc quan. Vó ngựa hoàng Hoa (đi sứ) đã gần ngày lên đường. Việc nhà không ai coi sóc và cai quản, tôi nghĩ rằng nàng cùng nội trợ tôi xưa có tình chị em, có phận keo sơn (Người vợ trước là con gái của Thượng thư Lê Anh Tuấn - vị đại thần đã nhận bà Điểm làm con nuôi). Nếu nàng bằng lòng đùm bọc cho nội trợ tôi thì thực là may cho cả nhà tôi đó”.

Tuy cảm động trước lời lẽ của Nguyễn Kiều, nhưng Hồng Hà nữ sĩ chưa muốn đem mình vào cuộc hôn nhân muộn màng, nhưng mẹ già và cả nhà giục giã, nên nữ sĩ đồng ý kết hôn với Tiến sĩ Nguyễn Kiều.

Cuộc hôn nhân như một điều kì diệu và tiếng tăm vang dội cả kinh thành Thăng Long. Trước đó, không ai lọt mắt xanh của Hồng Hà nữ sĩ. Nguyễn Kiều đã kể:
 
“Nhân duyên gặp gỡ nhất trần gian
Cả cuộc đời ta được phúc ban
Ai bảo khát khao tiên nữ nữa
Nàng tiên đã xuống cõi nhân hoàn”

Vừa cưới được một thời gian ngắn, Nguyễn Kiều làm Chánh sứ đi tuế cống nhà Thanh ba năm trời. Trong thời gian xa chồng, bà đã dịch ra quốc âm tập thơ Chinh phụ ngâm từ bản tiếng Hán của Đặng Trần Côn - Một tuyệt tác của văn học Việt Nam.

Năm 1745, Nguyễn Kiều về nước, năm 1748, ông được cử làm quan ở Ngệ An. Bà đi cùng chồng, nhưng bà bị cảm nặng và mất tại Nghệ An năm đó, hưởng thọ 44 tuổi. Thương cảm người bạn đời vắn số, Nguyễn Kiều đã viết bài văn tế, hết lời ca ngợi văn tài và đức hạnh của bà. Trong đó có câu:

           “Đào vừa tươi đã khô
            Quế đang thơm đã tàn
            Rừng sâu bể rộng nàng hỡi đi đâu
            Ngọc nát châu chìm lòng tôi quặn nhớ...
            Lối về trên bến. Tạm dựng bàn thờ
            Lệ tiễn hai hàng chan chứa. Tình thương một lễ đơn sơ
            Hương hồn nàng yên nghỉ. Cổ ấp, tôi hằng mơ"


Tiến sĩ Nguyễn Kiều thương nhớ Đoàn Thị Điểm nên: Hằng mơ về cổ ấp - Mơ về ngôi làng có mái nhà ông từng chung sống với nữ sĩ họ Đoàn.

Tài liệu về Hồng Hà nữ sĩ đang được các cơ quan chức năng sưu tầm cho đầy đủ hơn. Nhưng với những gì hiện có, chúng ta có thể kết luận: Hồng Hà nữ sĩ không chỉ giỏi về văn chương, mà bà còn là một phụ nữ có tầm nhìn xuất chúng vượt lên thời đại với tấm lòng yêu nước thương dân và là một phụ nữ đức hạnh hiếu nghĩa tiêu biểu.
 
                                          Kông Đán
 Các tài liệu tham khảo:
1. Lịch triều Hiến chương loại chí - Quyển 2 của Phan Huy Chú, NXB Trẻ tháng 1/2014;
2. Truyền kỳ Tân Phả - Đoàn Thị Điểm, người dịch Ngô Lập Chi - Trần Văn Giáp, NXB Trẻ, quý 3/2013;
3. Chinh Phụ ngâm-  Đặng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị Điểm, NXB Văn học, quý 1/2011;
4. Danh nhân Việt Nam - Nguyễn Phương Bảo An, NXB Văn học năm 2016;
5. Tang thương ngẫu lục - Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, NXB Khoa học Xã hội năm 2016;
6. Tìm hiểu các tác gia Hán Nôm Hải Hưng - Chủ biên Nguyễn Đình Nhã - Tăng Bá Hoành, NXB Ty Văn hóa Hải Hưng, tháng 11/1973.
       





 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây