Sau những giờ lên lớp về lý thuyết, các ông chia nhau mỗi người kèm mấy học viên sáng tác. Tôi được ông trực tiếp hướng dẫn. Thú vị là ngay từ buổi tiếp xúc đầu tiên, ông đã làm tôi thấy thân thiết như cha con, chú cháu trong một gia đình, chẳng chuyện gì về gia đình, hoàn cảnh và đời sống chiến sỹ của tôi mà ông không quan tâm… Và cũng chính từ những tâm sự này, tôi đã hình thành nên một đề cương văn học để sáng tác trong thời gian dự trại. Đấy là một đề cương tiểu thuyết có tên Những tầng cây săng lẻ. Tuổi 20 ai mà chẳng hăng. Khi nộp đề cương này cho ông, thấy ông tủm tỉm: “Ừ, cứ viết đi. Nhưng có lẽ đây chỉ là một truyện ngắn…”
Quả là một ông thầy già dặn. Ngay sau buổi ấy, tôi chưng đèn viết như điên. Lại thêm nữa, về trại viết được “cơm no rượu say” mà chưa bao giờ đời chiến sỹ mặt trận chúng tôi được hưởng như thế, nên cứ thức hết đêm này qua đêm khác, toét cả mắt mà cày. Ấy vậy mà chỉ được đến trang thứ 30 thì đúng là hết truyện, khép lại là vừa…
Cũng chính từ trại viết ấy, tôi trở nên thân thiết với ông, và còn được ông mời lại nhà chơi… Đấy là một căn hộ nhỏ trong một chung cư ở phố Trần Quốc Toản, Hà Nội. Nhỏ thôi, nhưng ngay từ buổi đầu tới, tôi đã cảm nhận được là chật mà hóa rộng, bởi tấm lòng rộng mở của chủ nhân. Căn hộ của ông luôn tấp nập, đêm hè oi bức cũng như đêm đông gió lạnh, lúc nào cũng có khách ngồi thăm hỏi, tâm sự, giãi bày… Đó là những nhà văn quân đội tên tuổi, là những cây viết trẻ ở những đơn vị trong toàn quân, là những nhà văn dân sự viết về đề tài chiến tranh… Lại cả những nhà văn có những phiền toái về lý lịch, tìm đến ông như một sự nương tựa, chở che. Có những người đến cậy nhờ ông in sách, giới thiệu tác phẩm, cũng lại cũng có người chỉ đến để tâm sự về văn chương, về thế thái nhân tình… Sau này tôi mới hiếu cái tình trong ông thật lớn. Trách nhiệm đã đành, mà tình với con người, nhất là với người cầm bút, dù trong hay ngoài quân đội, đều được ông nâng niu, trân trọng, chỉ bảo, giúp đỡ ân tinh. Chính bởi thế, đã nhiều tác phẩm văn học xuất sắc về người lính được xuất bản trong thời gian ông là biên tập viên, rồi là Trưởng phòng biên tập văn nghệ của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Cũng giai đoạn này, nhiều nhà văn áo linh đã trưởng thành nhờ sự giúp đỡ, vun vén của ông. Chẳng ai nhớ được những năm tháng chiến tranh ấy, ông đã cùng các cộng sự của mình như Vũ Sắc, Ngọc Tự, Minh Giang… đi mở, hoặc đến với bao trại viết quân đội, hướng dẫn cho bao người cầm súng cầm thêm cây bút; đọc và biên tập bao nhiêu trang bản thảo còn khét lẹt mùi thuốc súng để có những tác phẩm văn học xuất sắc về cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc... Những tiểu thuyết bề thế của Hồ Phương, của Xuân Thiều, Bùi Bình Thi; trường ca Hữu Thỉnh, truyện Nguyễn Trí Huân, Triệu Bôn, thơ của Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng… cùng với rất nhiều gương mặt văn học trẻ khác. Nói thật những ngày ấy, có được một tác phâm in ấn ở Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân là niềm mơ ước, là hạnh phúc của bao người cầm bút. Đó không chỉ là một giá trị văn học, mà còn là một bệ phóng vút bay cao… Cũng phải nói thêm rằng, trong đó có cả những cây bút tưởng chừng đã không thể gắng gượng được nữa vì tỳ vết, mà nhờ sự nâng đỡ của ông, đã trở lại với con đường văn học và có những tác phẩm hữu ích, được xuất bản bề thế và trang trọng…
Trở lại chuyện ở trại viết năm ấy, truyện ngắn Những tầng cây săng lẻ của tôi, với sự kèm cặp của thầy Đỗ Gia Hựu, được giải thưởng của Trại viết, và qua sự giới thiệu đầy uy tín của ông, đã được in trân trọng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Một hạnh phúc lớn với một binh nhất mới cầm bút như tôi. Năm 1980, trong bối cảnh giấy má in ấn rất khó khăn, tôi lại được ông ưu ái in cho tập kịch Những bạn trẻ của tôi ở Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, mà nói thật, cái ngữ viết kịch như tôi chả chắc đã được là học trò của những nhà viết kịch quân đội khác như Đào Hồng Cẩm, Tào Mạt, Hoài Giao, Kiều Kim Trùy, Chu Nghi, Sỹ Hanh… Thế nhưng vẫn được ưu tiên vì theo quan điểm của ông, là “chiến sỹ trẻ ở đơn vị chiến đấu, những trang viết còn nóng bỏng hơi thở mặt trận…”
Năm 1974, tôi về học khoa Văn trường Đại học sư phạm Hà nội. Tôi có người bạn thân là Lê Huy Hòa, nguyên là một phi công, cũng về học. Hòa hiền lành, ít nói, học không thật giỏi, nhưng chịu thương chịu khó. Khi tốt nghiệp, Hòa được điều đi dạy ở một tỉnh xa phía bắc, trong khi anh lại rất thiết tha trở lại quân đội phục vụ. Tôi dẫn Hòa đến gặp ông Đỗ Gia Hựu để giới thiệu Hòa về với Nhà xuất bản Quân đội (Việc này sau Hòa đã kể trong một hồi ký in trong tập kỷ yếu của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân gần đây). Với tất cả tấm lòng ưu ái với thế hệ trẻ, ông đã vượt qua rất nhiều nhiêu khê về thủ tục hành chính để kiên quyết tạo điều kiện cho Hòa về Nhà xuất bản. Không những thế, ông còn kèm cặp, rèn giũa cho Hòa thành một Biên tập viên văn nghệ bản lĩnh, đưa sang Nga làm chuyên gia xuất bản với quân đội bạn, và sau này còn mai mối, tác nối và đứng ra làm đại diện họ nhà trai để lấy vợ cho Hòa…
Ông đặc biệt yêu quý những người lính trẻ, những cây bút trẻ đang ở mặt trận. Ông chăm chút cho họ không chỉ từng trang viết mà còn cả cuộc sống. Nhà văn Khuất Quang Thụy kể: Năm 1975, sau khi miền Nam giải phóng, Thụy được về phép về thăm nhà, và mẹ anh đã kể lại, rằng: “Cuối năm 1972, vào những ngày máy bay Mỹ đang ném bom Hà Nội, bỗng một hôm có mấy ông cán bộ to của Trung ương quân đội tìm đến nhà ta. Các ông ấy đưa cho mẹ một ít tiền và nói rằng đó là tiền bút gì đó của con. Thế là cả nhà òa lên khóc! Mẹ nghĩ, có lẽ con chết rồi nên các ông ấy mang tiền tuất về cho mẹ…”. Mãi sau này anh mới biết đó là ông Đỗ Gia Hựu và các anh ở Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, sau khi in ký sự Lửa và thép trong cuốn Cửa khẩu, vì biết Khuất Quang Thụy đang chiến đấu ở Tây Nguyên nên đã lặn lội lên tận Sơn Tây để mang tiền nhuận bút tới cho gia đình
Nhiều người biết đoạn đầu đời riêng của ông không mấy suôn sẻ. Đã hai người phụ nữ đi qua cuộc đời ông… Nhưng dù vậy, ông luôn nghĩ tới việc chăm lo hạnh phúc cho mọi người. Không chỉ với Lê Huy Hòa nhờ có ông mà lấy được cô giáo Ngà đảm đang; mà cả Nguyễn Trí Huân, người ông coi như đứa em ruột thịt, trong những năm anh Huân đi chiến trường, ông không chỉ lo những trang viết, mà sau này cũng chính là người đã đứng ra mai mối dựng vợ gả chồng cho Nguyễn Trí Huân… Rồi với cả Lê Lựu hàn gắn vết thương lòng, rồi đôi vợ chồng Chu Lai - Vũ thị Hồng… tất cả cũng đều một tay ông và lòng yêu thương của ông mà nên đôi lứa. Cái tình của ông thật lớn, và cũng bởi thế, ông đã được đền đáp bằng lòng yêu quý chân thành của tất cả những nhà văn già hay trẻ, trong và ngoài quân đội, của những Biên tập viên văn nghệ sừng sỏ của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, như Tạ Hữu Yên, Vũ Sắc, Ngọc Tự, Kiều Kim Trùy, Hồng Duệ, Vũ Thị Hồng, Trần Nhương, Dương Duy Ngữ, Nguyễn Quang Tính, Trần Chiến… và nhất là của cô Thuận, một kỹ sư thủy lợi dịu dàng đã gắn bó và chăm sóc ông bằng một trái tim vàng trong hơn nửa cuộc đời ông sau này…
Tôi cũng hay “bố bố con con” với ông từ thuở được ông dạy dỗ ở trại viết, và thực sự coi ông như một người cha của mình. Nhưng bởi ở xa ông, nên phận làm con của tôi không bằng thằng Bách, cái Bích hay thằng Lê Huy Hòa… Nhất là những người em của ông như các anh Nguyễn Trí Huân, Trần Nhương… đã chăm sóc ông hết sức chu đáo như ruột thịt. Vừa rồi ra dự Đại hội Hội nhà văn, anh Nguyễn Trí Huân còn nhắc: “Đến thăm cụ Hựu chưa?” làm lòng tôi chợt thấy mình như có lỗi buốt giá. Nghe nói cụ cũng đã chuyển nhà rồi, không còn ở “phố nhà binh” nữa… Chợt nhớ cách đây ít năm, khi cụ cũng đã 85, 87 tuổi, một hôm anh Trần Nhượng điện vào bảo cụ Hựu ốm nặng, khéo nguy cậu ạ. Thế là nước mắt nước mũi đầm đìa, nửa đêm bật dậy viết một bài báo đầy xúc cảm về cụ với bao kỷ niệm của những tháng ngày quân đội. Viết xong, điện ngay cho Lương Ngọc An, báo Văn nghệ, bảo em in cho anh gấp bài này nhé, ông ấy là như thế, như thế, là bố nuôi của anh, là anh nuôi của anh Nguyễn Trí Huân… Báo vừa ra, đưa vào Viện để con cháu đọc cho cụ nghe. Nghe nói lúc ấy cụ cũng xúc động lắm, nước mắt rơm rớm… Thế nhưng sau này con dâu cụ kể lại: “Nghe xong bài báo, bố em nằm trấn tĩnh một lúc, rồi bảo mẹ em cho uống sữa, rồi vươn vai bật dậy, lừng lững đòi ra viện. Bố bảo: Chúng nó tưởng tao sắp... “đi” hay sao mà viết lâm ly thế. Tao làm sao đã đi được. Các con cho bố về nhà ngay, rồi hẹn chúng nó đến chơi…”. Thế mà rồi ít ngày sau cụ được về nhà thật, và chưa bao giờ quay lại viện nữa cho đến hôm nay, cụ đã vào tuổi 92…
Văn chương và những người lính chắc chắn không bao giờ quên ông. Hôm ở Trại viết Đề tài chiến tranh & Lực lượng vũ trang 2020 do Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân tổ chức ở Đà lạt, tôi tâm sự với anh em: “Có lẽ duy nhất một người cầm bút tròn nửa thế kỷ đến nay vẫn tham dự những trại viết do Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân tổ chức là tôi. Và người Thầy mà hôm nay, ở trại viết sau nửa thế kỷ này, tôi xin được tôn vinh, chính là người đầu tiên dìu dắt chúng tôi bước vào văn chương, vẫn dõi theo bước chân của chúng tôi suốt nửa thế kỷ qua, người đã dạy chúng tôi không chỉ biết cầm súng mà còn biết cầm bút, chính là Đại tá Đỗ Gia Hựu, Biên tập viên Nhà xuất bản Quân đội năm xưa. Ông chính là một bóng thầm trên mỗi trang văn của chúng tôi..”
Và đấy cũng là một phần hạnh phúc trong đời lính của riêng tôi…
Tác giả: Châu La Việt
Nguồn Văn nghệ số 1+2/2021
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
© 2022 Bản quyền thuộc về Người làm báo Hưng Yên.
Người làm báo Hưng Yên