Lưu Quang Vũ quan niệm: “Tôi viết thơ cho mình và viết kịch cho mọi người”, với mong muốn được cống hiến, được bày tỏ vào dòng chảy cuộc sống đương thời… Lưu Quang Vũ như con ong cứ lặng lẽ, miệt mài lao động văn chương, đến độ nhiều người đều phải ngợp, phải kính nể và không thể lý giải nổi. Chỉ trong 9 năm, với 53 vở kịch, Lưu Quang Vũ khắc họa, đào sâu mọi mặt của đời sống, xã hội. Đa phần, trong những vở kịch ấy ta bắt gặp những câu chuyện rất đời: xí nghiệp, trường học, cơ quan nhà nước, tòa án, nông trường… bức tranh cuộc sống, được tác giả nhìn ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau. Tuy vậy, vẫn có một khoảng mà Lưu Quang Vũ đã nghiêng mình với quá khứ, với lịch sử và mượn những tích truyện xưa để gửi gắm những chiêm nghiệm, suy tưởng.
GS Phan Ngọc từng nhận định: “Không ai bằng Vũ trong cái nêu lên cái muôn đời trong cái bình thường, biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để khẳng định cái cao quý”. Kho tàng văn học dân gian rộng lớn, chúng ta đã quá quen thuộc những cốt chuyện muôn đời. Cái khó của người cầm bút là phải vừa dựa trên nguyên tác cốt truyện có sẵn nhưng vẫn phải gửi gắm những tư tưởng mới mẻ, những phát hiện đột phá về nghệ thuật, Lưu Quang Vũ đã hòa hợp, đan xen những điều đó thật khéo léo…
Trên con đường trở thành một nhà viết kịch tầm cỡ, những vở kịch mượn tích dân gian của Lưu Quang Vũ tuy không nhiều, nhưng luôn để lại ấn tượng lớn và là những dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp cầm bút của tác giả. Vở chèo Nàng Sita, là sự tri âm, báo hiếu, kế thừa của Lưu Quang Vũ với người cha - nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Nàng Sita là tác phẩm sân khấu đánh dấu những e ấp đầu tiên của Lưu Quang Vũ với sân khấu… Nhắc tới Lưu Quang Vũ, là người ta nghĩ tới ngay Hồn Trương Ba, da hàng hàng thịt - vở kịch được coi là tác phẩm sân khấu hiện đại lớn nhất của Việt Nam, đưa tầm vóc Lưu Quang Vũ vượt ngưỡng của một nhà viết kịch bình thường, mà trở thành một tác gia lớn của văn chương, của sân khấu. Và còn vài vở kịch mượn tích dân gian đã được dàn dựng, gây được tiếng vang lớn: Linh hồn của đá, Ông vua hóa hổ, Lời nói dối cuối cùng,…
Bằng mẫn cảm người nghệ sĩ, bằng tài năng vượt bậc đang bung nở vào độ chín và cái nhìn đầy phát hiện, tỉnh táo. Lưu Quang Vũ đã phát triển, tạo dựng những tích truyện dân gian không chỉ gợi nhắc về câu chuyện thời xưa mà còn phảng phất bức tranh của xã hội đương thời với nhiều trăn trở, suy ngẫm… Đó là cái mâu thuân giữa phần hồn và phần xác: thân phận Trương Ba, vua Từ Đạo Hạnh - không một bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo… Mâu thuẫn giữa dục vọng, phàm tục thấp hèn (phần con) với những điều thanh bạch, cao quý (phần người). Mâu thuẫn trong chính mỗi con người luôn tồn tại hai phần rồng phượng - rắn rết, nhu cầu tinh thần - vật chất. Đó là ông Trương Ba khi được sống bằng cách vay mượn vào xác hàng thịt, rồi dần dần cũng mất dần bản ngã, nhân tính vốn có. Đó là Cuội (Linh hồn của đá) có một trái tim lương thiện, luôn muốn giúp đỡ mọi người, vậy mà những hành động của Cuội - tưởng rằng nghĩa hiệp, cao đẹp ấy lại là dối trá, lừa lọc. Đó là chân dung vua Đạo Hạnh, vốn dĩ là anh hùng áo vải trượng nghĩa dẹp loạn triều định đang u mục, nhưng khi lên làm vua lại hà khắc, bần tiện sẵn sàng đưa ra những hình phạt tàn ác… Ta còn thấy những nhân vật từ dân gian nhưng lại có bóng dáng của những con người cơ chế quan liêu bao cấp mà Lưu Quang Vũ sống. Thậm chí, những con người đó còn hiển hiện cả thời nay. Lớp người làm việc tắc trách, quan liêu, chỉ biết làm cho xong việc như Nam Tào, Bắc Đẩu: gạch bừa cho xong để nghỉ sớm (Hồn Trương Ba - da hàng thịt), ta ngồi trên ngôi báu này không phải để thương xót. Những ai làm vướng bước ta đi, phải bị gạt bỏ (vua Đạo Hạnh - Ông vua hóa hổ). Những lớp người chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt, mà không nghĩ đến hậu quả lâu dài: tiên Đế Thích làm theo kiểu chắp vá, vua Đạo Hạnh sẵn sàng uống cả vũng nước để có sức mạnh hay bất chấp đốt cả khu rừng để cầu người tài, nhân vật Cuội sẵn sàng lừa cả người mình yêu, lừa cả vua để có được vinh hoa bổng lộc. Hay cả ông vua (Lời nói dối cùng), bằng mọi giá phải có thái tử để bảo vệ ngai vàng… Và cả những thân phận con người cao quý, Lưu Quang Vũ đã đặt những đứa con tinh thần mà mình tạo ra vào những hoàn cảnh bi kịch trong cuộc đời, rồi từ đó làm nổi bật nên phẩm giá đức hạnh cao quý. Đó là ông Trương Ba bị chết một cách oan uổng, và vẫn chọn cái chết để giữ được bản ngã, thiên lương vốn có. Đó là nhân vật Minh Không (Ông vua hóa hổ), từ bỏ chốn bổng lộc vinh hiển để giữ được tâm hồn mình thanh sạch và cũng sẵn sàng trở lại trốn phàm tục để giúp người. Đó là hoàng hậu Thảo (Ông vua hóa hổ), khi biết chồng mình hóa thành hổ, dù đau đớn nhưng vẫn một lòng chung thủy, vượt muôn dặm quan san để thỉnh cầu người tài cứu giúp nhà vua. Đó là nàng Sita, bị chính người chồng của mình - Poliem, ruồng bỏ đầy đọa đến tột cùng đau đớn, nhưng Sita vẫn sắc son một lòng. Đó còn là bị kịch của Thanh và Vịnh (Linh hồn của đá), nỗi đau khi Vịnh biết được người vợ mình chí là cô em gái năm xưa…
Dù tác phẩm ấy là hài kịch, bi kịch, chính kịch hay vở chèo,… thì ta luôn nhận được những điều mà tác giả gửi gắm về lòng tốt, về lẽ phải - những điều căn cốt trên đời: Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa (Hồn Trương Ba, da hàng thịt), không thể có được điều tốt lành bằng những cách thức xấu xa (Lời nói dối cuối cùng). Kết thúc mỗi vở kịch, Lưu Quang Vũ luôn gieo vào lòng chúng ta niềm tin: cái thiện luôn thắng cái ác, lẽ phải hay lòng tốt luôn ngự trị trong cuộc đời…
Lưu Quang Vũ đã nâng tầm, phát triển những giá trị xưa cũ từ kho tàng văn học dân gian. Những vở kịch không chỉ gợi nhắc về quá khứ, về truyền thống mà còn để cho mỗi chúng ta tự trăn trở, suy ngẫm về thời cuộc, nhân thế hôm nay. Ngày hôm nay, chúng ta đi xem những vở kịch từ 32 năm trước, 32 năm - là khoảng thời gian vừa đủ để ta nhìn nhận và chiêm nghiệm lại sự biến thiên xoay vần của cuộc đời trong những vở kịch Lưu Quang Vũ. Chỉ tiếc rằng, Lưu Quang Vũ đã theo mây về trời khi tuổi đời đang độ chín và sung sức của người cầm bút. Vì thế mà Lưu Quang Vũ luôn mắc nợ những chuyến đi…
Hà Nội, đêm 11- 9 - 2020
Nguyễn Đức Cầm