Nhà báo chiến sĩ: Dấu chân người làm báo trên mọi mặt trận

Thứ năm - 17/07/2025 15:07
Mỗi khi tháng Bảy về, bên những dòng người thắp hương tri ân tại các nghĩa trang liệt sĩ trên mọi miền đất nước, chúng ta không quên nhắc đến một lực lượng đặc biệt: những người làm báo đã hy sinh vì Tổ quốc. Họ là những nhà báo – chiến sĩ – liệt sĩ. Ngòi bút của họ sắc như gươm, những trang viết của họ thấm đẫm máu và nước mắt, ghi lại những khoảnh khắc bi tráng nhất của lịch sử dân tộc.
ls nguyen huu tho
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải Phóng miền Nam Việt Nam, Chủ nhiệm Báo Giải Phóng và các phóng viên (năm 1969). (Ảnh tư liệu)
Khi nhà báo ra trận

Lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam là một phần không thể tách rời trong lịch sử đấu tranh giành độc lập, bảo vệ và xây dựng đất nước. Ngay từ những ngày đầu thành lập, đội ngũ nhà báo đã xác định rõ sứ mệnh của mình: không chỉ phản ánh thực tiễn cách mạng, cổ vũ phong trào đấu tranh, mà còn trực tiếp trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, các nhà báo đã rời tòa soạn, rời bàn viết để vào chiến trường. Họ hành quân cùng bộ đội, bám sát chiến hào, sống trong rừng, ăn cơm vắt, ngủ võng, mang máy ảnh, bút, giấy, cuốn sổ nhỏ, truyền tin về hậu phương từng giờ từng phút.
Không ít người trong số họ đã nằm lại chiến trường. Máu của họ đã hòa vào lòng đất, trở thành một phần ký ức bất tử của dân tộc. Họ là những liệt sĩ mang trên mình hai vai: vừa là người làm báo, vừa là người lính.

Theo thống kê chưa đầy đủ, riêng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cả nước có trên 500 nhà báo hy sinh khi đang làm nhiệm vụ. Những con số đó không chỉ là những bản ghi khô khan, mà là những câu chuyện về lòng quả cảm, về sự dấn thân không tiếc thân mình vì nhiệm vụ phản ánh sự thật, vì trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân.

Những tấm gương sáng mãi

Khi nhắc đến các nhà báo – liệt sĩ, nhiều người nhớ về Dương Thị Xuân Quý, một nữ phóng viên trẻ của Báo Văn nghệ Giải phóng. Tháng 2/1966, chị lập gia đình với nhà thơ Bùi Minh Quốc. Năm 1965, chị viết đơn tình nguyện vào Nam chiến đấu. Phải đến tháng 4/1968, tổ chức mới chấp thuận nguyện vọng của chị. Ngày 14/6/1968, Dương Thị Xuân Quý lên đường vào chiến trường Quảng Nam, gửi lại con gái Dương Hương Ly mới 16 tháng tuổi cho mẹ ruột chăm sóc. Tại chiến trường, chị tham gia gùi gạo, đào hầm, chống các đợt càn quét của địch và ghi lại những năm tháng ác liệt, hào hùng của nhân dân Quảng Đà. Đêm 8/3/1969, Dương Thị Xuân Quý anh dũng hy sinh tại thôn Thi Thại, xã Xuyên Tân (nay là xã Duy Thành), huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam trong một trận càn ác liệt của lính Nam Triều Tiên, khi chị cùng đồng đội từ hầm bí mật bò lên tìm đường thoát khỏi vòng vây. Ngã xuống ở tuổi 28 tươi đẹp nhất của cuộc đời, Dương Thị Xuân Quý để lại nhiều tác phẩm báo chí và văn chương có giá trị. Những bài viết của chị về đời sống chiến sĩ, về nhân dân vùng giải phóng vẫn còn được lưu giữ đến hôm nay như những tư liệu quý giá.
ttxvn
Đoàn xe của cán bộ Việt Nam Thông tấn xã vượt Trường Sơn vào chi viện cho chiến trường. (Ảnh tư liệu)

Nhà báo - liệt sĩ Trần Kim Xuyến báo Cứu Quốc Nam Bộ cũng là một tấm gương tiêu biểu. Ông là một nhà báo, chiến sĩ cách mạng và đã có nhiều đóng góp cho báo Cứu Quốc Nam Bộ. Trần Kim Xuyến hy sinh trong cuộc kháng chiến và được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất. Tên của ông được đặt cho nhiều trường học và con đường tại nhiều địa phương, thể hiện sự ghi nhận và lòng biết ơn của nhân dân. Hiện nay, có nhà lưu niệm về nhà báo, liệt sĩ Trần Kim Xuyến được xây dựng tại quê nhà, trở thành "địa chỉ đỏ" giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ nhà báo trẻ.

Còn biết bao nhà báo khác đã ra đi trong thầm lặng, khi đang làm nhiệm vụ giữa chiến trường ác liệt: nhà báo Bùi Nguyên Khiết (Báo Hoàng Liên Sơn); nhà báo Hoàng Kim Tùng (Báo Giải phóng Quảng Đà); là các phóng viên, kỹ thuật viên của Đài Tiếng nói Việt Nam, của các tờ báo, đài phát thanh khu 5, khu 9, khu 10… Họ là những người đã hy sinh tuổi thanh xuân, thậm chí là cả cuộc đời, để bảo vệ từng thước phim, từng cuộn băng ghi âm, từng bản tin nóng hổi gửi về hậu phương.

Những phóng viên chiến trường thời ấy không có phương tiện hiện đại, không có mạng internet, không có máy ảnh kỹ thuật số hay thiết bị bảo hộ. Họ chỉ có lòng dũng cảm, tinh thần thép và một niềm tin son sắt vào chiến thắng của cách mạng. Họ sẵn sàng vượt qua mưa bom bão đạn để ghi lại những hình ảnh trung thực nhất về cuộc chiến, mang đến cho đồng bào cả nước niềm tin vào ngày toàn thắng.

Những trang viết dang dở và những cuốn phim không kịp rửa

Có những bản thảo dở dang mãi không bao giờ hoàn thành. Có những cuộn phim chưa kịp rửa đã theo người phóng viên đi vào cõi vĩnh hằng. Có những đoạn băng ghi âm còn dang dở giữa câu chuyện. Đó là một phần ký ức đau thương nhưng cũng đầy kiêu hãnh của báo chí Việt Nam.
Phóng viên chiến trường khi ấy không chỉ ghi chép, chụp ảnh, mà còn làm liên lạc viên, tải đạn, chăm sóc thương binh. Họ đi bộ hàng trăm cây số, vượt suối, băng rừng, có khi ngủ trong hầm trú ẩn, có khi chịu đói chịu khát để hoàn thành nhiệm vụ. Họ là những người thầm lặng nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh trung thực nhất sự tàn khốc của chiến tranh, tinh thần anh dũng của quân dân Việt Nam và những giá trị bất diệt của cuộc kháng chiến.

Nhiều nhà báo sau khi ngã xuống, tên tuổi của họ được khắc lên bia mộ liệt sĩ, được lưu danh trong các cuốn sách lịch sử báo chí. Nhưng cũng có những người vẫn còn chưa được xác nhận, chưa tìm thấy hài cốt. Những ký ức về họ chỉ còn lại qua lời kể của đồng đội, qua những dòng nhật ký để lại, qua vài tấm hình cũ kỹ được phục dựng từ những tờ báo nhuốm màu thời gian.

Ngày hôm nay và mãi mãi

Kỷ niệm 27/7 – Ngày Thương binh liệt sĩ, bên cạnh việc tri ân những người lính đã hy sinh vì Tổ quốc, báo giới Việt Nam cũng dành những nén tâm hương tưởng nhớ các nhà báo - chiến sĩ, liệt sĩ. Đó là đạo lý, là trách nhiệm, là sự nhắc nhở thế hệ hôm nay về một phần lịch sử vẻ vang nhưng đầy mất mát của nghề báo.
chua da
Nằm ở góc nhỏ tại xã Hưng Lộc, TP Vinh (Nghệ An) có một ngôi chùa (Chùa Da) đang thờ tự hơn 500 liệt sĩ là các nhà báo đã hy sinh anh dũng trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc.
Ngày nay, khi đất nước đã hoà bình, đội ngũ những người làm báo tiếp tục thực hiện sứ mệnh của mình trên mặt trận mới – mặt trận thông tin. Cuộc chiến bây giờ không còn là súng đạn, nhưng vẫn là cuộc đấu tranh giữa cái đúng và cái sai, giữa sự thật và giả dối, giữa cái thiện và cái ác. Nhà báo vẫn cần bản lĩnh, lòng trung thực và tinh thần dấn thân như các bậc tiền bối.

Kỷ nguyên số mang đến cho báo chí nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít thách thức. Giữa dòng thông tin đa chiều, nhà báo chân chính vẫn cần giữ mình như giữ ngọn lửa từ ngày xưa: kiên định, khách quan, chính trực. Cây bút ngày nay không chỉ là công cụ nghề nghiệp, mà còn là công cụ đấu tranh vì một xã hội tiến bộ, văn minh, công bằng.

Những nhà báo – chiến sĩ, liệt sĩ đã nằm lại với đất nhưng dấu chân của họ vẫn in đậm trên mỗi nẻo đường lịch sử. Họ đã để lại cho hậu thế một di sản vô giá: tinh thần dấn thân, lòng yêu nước, sự quả cảm và trách nhiệm với nghề báo.

Mỗi bản tin lên sóng, mỗi trang báo phát hành hôm nay, là sự tiếp nối của những bản tin chuyển qua dây thép khi xưa. Mỗi người làm báo hôm nay, khi cầm bút, cầm máy, hãy nhớ rằng mình đang tiếp bước các thế hệ đi trước, những người đã đánh đổi cả mạng sống để giữ vững ngòi bút chính nghĩa. Bởi vì, như một câu nói đầy ám ảnh mà các nhà báo chiến trường thường nhắc nhau: Nếu tôi ngã xuống, xin đừng khóc. Hãy cầm bút viết tiếp câu chuyện của tôi…

Tháng Bảy, xin được nghiêng mình trước các nhà báo: chiến sĩ – liệt sĩ! Tri ân sâu sắc những người đã ngã xuống vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì nền báo chí cách mạng Việt Nam. Họ là những người viết tiếp lịch sử bằng chính máu của mình.

 

NLBHY

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây