PV
“Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ Nhân dân, phục vụ cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí cách mạng Việt Nam luôn đồng hành cùng đất nước, là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò tiên phong trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam”. Đó là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ III, Hội Nhà báo Việt Nam năm 1962. Từ những trang báo viết tay trong thời kỳ cách mạng đến nền báo chí hiện đại trong kỷ nguyên số, báo chí Việt Nam đã có một hành trình đầy tự hào, luôn gắn bó mật thiết với sự nghiệp cách mạng, bảo vệ và phát triển đất nước. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, báo chí không chỉ là công cụ tuyên truyền mà còn là tiếng nói của nhân dân, là động lực góp phần đổi mới xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và nâng cao vị thế quốc gia.
Vũ khí sắc bén trong sự nghiệp cách mạng, kháng chiến
Báo chí cách mạng Việt Nam ra đời trong lòng phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX, gắn liền với hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường giải phóng dân tộc. Năm 1925, tờ Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập tại Quảng Châu (Trung Quốc) chính là tờ báo đầu tiên mang tính chất cách mạng, đặt nền móng cho dòng báo chí cách mạng nước ta. Từ đây, báo chí trở thành công cụ hữu hiệu để giác ngộ lý tưởng cách mạng, tổ chức lực lượng và vận động quần chúng đứng lên làm cách mạng.
Trong giai đoạn 1930 - 1945, mặc dù hoạt động trong hoàn cảnh bị thực dân Pháp đàn áp, nhiều tờ báo cách mạng đã ra đời và đóng góp quan trọng vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Những tờ báo tiêu biểu như "Tranh đấu", "Búa liềm", "Dân cày" và "Tiến lên" đã trở thành công cụ tuyên truyền quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức và tinh thần cách mạng của nhân dân. Nhà báo thời kỳ này phần lớn là cán bộ cách mạng, hoạt động bí mật, lấy cây bút làm vũ khí, lấy trang giấy làm mặt trận.
Khi Cách mạng tháng Tám thành công, báo chí bước vào thời kỳ mới với nhiệm vụ xây dựng chính quyền cách mạng và củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và Bác Hồ. Báo Cứu quốc, Sự thật (sau là báo Nhân dân), Vệ Quốc quân,… đã phản ánh kịp thời tinh thần kháng chiến toàn dân, toàn diện; cổ vũ những phong trào thi đua yêu nước, bảo vệ thành quả cách mạng.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, báo chí trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cuộc chiến tranh nhân dân. Từ những bài ký sự chiến trường đến những phóng sự về hậu phương lớn miền Bắc, báo chí đã góp phần khơi dậy lòng yêu nước, củng cố niềm tin chiến thắng. Nhiều phóng viên báo chí đã sống, chiến đấu và hy sinh bên cạnh những người lính. Những cái tên như Đoàn Công Tính, Chu Chí Thành, Trần Mai Hưởng và Mai Văn Minh,… trở thành biểu tượng của người làm báo - chiến sĩ.
Đáng chú ý, báo chí thời kỳ này còn là công cụ đối ngoại quan trọng. Các bài viết bằng tiếng nước ngoài, các bản tin phát thanh đối ngoại đã vạch trần tội ác chiến tranh, kêu gọi dư luận tiến bộ thế giới ủng hộ Việt Nam, lên án xâm lược, thúc đẩy phong trào phản chiến toàn cầu. Trong điều kiện thiếu thốn phương tiện, vật chất, báo chí vẫn bền bỉ góp mặt trên mọi mặt trận: từ những hầm hào, lán trại ở chiến khu, đến những vùng tạm chiếm, đô thị. Có khi một bản tin chỉ viết tay và được chuyền tay, có khi một số báo in thủ công bằng thạch cao, mực tím, nhưng nội dung lại thắp lên cả một tinh thần cách mạng. Không chỉ phản ánh hiện thực, báo chí thời chiến còn định hướng tư tưởng, nâng đỡ tinh thần cho hàng triệu con người trong cuộc trường chinh vì độc lập dân tộc. Đó là sự sắc bén không nằm ở điều kiện vật chất, mà ở sức mạnh tinh thần, ở lý tưởng và chính nghĩa mà báo chí đại diện.
Trong suốt chặng đường cách mạng và kháng chiến, báo chí Việt Nam không chỉ làm nhiệm vụ truyền tin mà còn gánh trên vai sứ mệnh thiêng liêng: xây dựng niềm tin, truyền cảm hứng và đoàn kết dân tộc. Tinh thần ấy, bản lĩnh ấy vẫn luôn là nền tảng để báo chí tiếp tục khẳng định vai trò trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Trong hòa bình: Gương mặt mới, vai trò mới
Giai đoạn sau 1975, đất nước bước vào thời kỳ bao cấp với muôn vàn khó khăn: nền kinh tế trì trệ, thiếu lương thực, hàng hóa khan hiếm, đời sống nhân dân vất vả. Trong hoàn cảnh ấy, báo chí trở thành tấm gương phản chiếu hiện thực xã hội. Hàng loạt bài viết ghi lại chân thực những gian khổ, bất cập, những mô hình sản xuất tự cứu, tự quản ở các địa phương đã làm sống dậy bức tranh hậu chiến một cách sinh động và giàu cảm xúc.
Tuy phải hoạt động trong khuôn khổ định hướng tuyên truyền chặt chẽ, nhưng không ít nhà báo đã thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp bằng những bài viết sắc sảo, góp phần khơi gợi những câu hỏi về cơ chế quản lý, hiệu quả kinh tế, sự cần thiết của đổi mới tư duy. Nhiều tờ báo giai đoạn này như Nhân dân, Tiền phong, Tuổi trẻ, Lao động, Sài Gòn Giải phóng, Văn nghệ… dần hình thành bản sắc riêng, vừa thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, vừa tìm cách chạm tới đời sống thực tế, tạo nên những kênh thông tin gần gũi, giàu tính phản biện.
Công cuộc đổi mới (năm 1986) không chỉ là một bước ngoặt kinh tế, chính trị mà còn là một cuộc cách mạng tư duy, thời kỳ này báo chí đóng vai trò đi đầu. Chính trên các trang báo đã xuất hiện những tiếng nói đầu tiên cổ vũ cải cách, phê phán cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tôn vinh doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích sáng kiến từ cơ sở và đề xuất các mô hình đổi mới hiệu quả. Nhiều bài báo, loạt phóng sự đã dũng cảm chạm đến những “vùng tối” của xã hội: tham nhũng, trì trệ, lãng phí, yếu kém trong quản lý nhà nước. Tiêu biểu nhất phải kể đến loạt bài của chuyên mục “Những việc cần làm ngay” trên Báo Nhân dân mà người khởi xướng loạt bài viết này chính là đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Các tác phẩm báo chí không chỉ dừng lại ở phản ánh, mà đã thúc đẩy thay đổi chính sách và nhận thức. Báo chí trở thành kênh phản biện xã hội có trách nhiệm, từ đó góp phần hình thành nền hành chính công khai, minh bạch hơn. Đây cũng là thời kỳ mà nhiều cây bút, nhà báo xuất sắc xuất hiện, không chỉ là người đưa tin mà là những nhà tư tưởng, nhà cải cách trên trang giấy, tiêu biểu như nhà báo Hữu Thọ, Phan Quang, Trần Bạch Đằng và các nhà văn, nhà báo như Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Tố Hữu… đã đóng góp vào “chấn động tinh thần” của cả một thời kỳ chuyển mình.
Sự cởi mở về tư tưởng kéo theo nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng. Báo chí phải thích nghi, thay đổi lối viết, mở rộng đề tài, tăng tính thời sự, nhân văn và phản biện. Nhưng cùng lúc, báo chí cũng phải giữ vững bản lĩnh chính trị, không để “hòa tan” vào làn sóng thương mại hóa hay bị cuốn theo tin giả, thông tin sai lệch. Trong bối cảnh ấy, khái niệm “tự do trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp” trở thành nguyên tắc vàng của người làm báo cách mạng. Đó không phải là sự giới hạn tự do, mà là bảo đảm để báo chí phục vụ lợi ích cộng đồng, bảo vệ lẽ phải, sự thật và sự phát triển bền vững của quốc gia.
Thời kỳ này đã mở ra một “gương mặt mới” cho báo chí Việt Nam. Báo chí, không còn đơn thuần là công cụ tuyên truyền mà đã thực sự trở thành một chủ thể xã hội năng động, sáng tạo, phản biện và đồng hành cùng sự phát triển của đất nước. Chính trong thử thách của hòa bình, báo chí càng thể hiện rõ vai trò mới: làm cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, là diễn đàn của các tầng lớp xã hội.
Báo chí sẵn sàng cho kỷ nguyên vươn mình
Trong kỷ nguyên hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, báo chí Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức chưa từng có. Sự bùng nổ của mạng xã hội, truyền thông đa phương tiện và trí tuệ nhân tạo khiến báo chí phải đổi mới không ngừng về nội dung, hình thức và phương thức tác nghiệp. Báo chí hiện đại có thể tiếp cận độc giả mọi lúc, mọi nơi, trên mọi nền tảng: từ báo điện tử, ứng dụng di động, podcast đến mạng xã hội. Sự xuất hiện của dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa nội dung (robot journalism) đã giúp báo chí nâng cao hiệu quả tác nghiệp, tối ưu hóa nội dung theo nhu cầu người đọc, cá nhân hóa trải nghiệm. Không chỉ là kênh thông tin một chiều, báo chí thời số hóa còn tạo ra không gian tương tác đa chiều, góp phần thúc đẩy tính dân chủ và phản biện xã hội. Độc giả giờ đây không chỉ tiếp nhận thông tin mà còn có thể tham gia thảo luận, chia sẻ, góp ý và tạo nội dung, làm thay đổi vai trò truyền thống của nhà báo.
Tuy nhiên, chính sự bùng nổ thông tin cũng khiến báo chí chính thống đối mặt với sức ép lớn từ mạng xã hội và các nền tảng truyền thông phi truyền thống. Giữa một “biển thông tin” tin giả, tin sai, tin thất thiệt tràn lan, người dân dễ bị dẫn dắt bởi những nguồn thông tin không kiểm chứng. Trong khi đó, báo chí chuyên nghiệp phải tuân thủ quy trình kiểm chứng, đạo đức và pháp lý, thường chậm hơn so với “tin vỉa hè” trên mạng xã hội. Điều này tạo ra thách thức trong việc giữ chân bạn đọc và giữ vững niềm tin của công chúng. Áp lực “phải nhanh, phải sốc, phải viral” khiến một số tòa soạn và phóng viên rơi vào tình trạng chạy theo lượt view, làm mờ ranh giới giữa thông tin và giải trí, giữa phản ánh và giật gân. Ngoài ra, nguồn thu truyền thống của báo chí (quảng cáo, phát hành) ngày càng suy giảm do bị chia sẻ cho các nền tảng công nghệ lớn như Google, Facebook, TikTok… Tồn tại kinh tế của nhiều tờ báo bị đe dọa, buộc các cơ quan báo chí phải tìm kiếm mô hình hoạt động mới, như báo chí thu phí, báo chí dữ liệu, tích hợp đa nền tảng, tổ chức sự kiện…

Giữa sự nhiễu loạn thông tin, báo chí chính thống vẫn giữ một vai trò không thể thay thế: là nguồn thông tin tin cậy, có kiểm chứng và là tiếng nói chính danh của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong các tình huống khẩn cấp như dịch COVID-19, thiên tai, xung đột thông tin, chính báo chí chính thống đã cung cấp thông tin chuẩn xác, góp phần ổn định dư luận, ngăn chặn hoang mang và tin giả lan truyền. Báo chí còn là công cụ phản biện, giám sát quyền lực, phòng chống tham nhũng, bảo vệ người yếu thế, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên môi trường số, báo chí không chỉ làm nhiệm vụ thông tin mà còn phải “gác cửa” cho dòng chảy thông tin lành mạnh, nhân văn và đúng định hướng.
Sự nghiệp báo chí hôm nay đòi hỏi mỗi nhà báo, mỗi cơ quan báo chí phải không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt của truyền thông hiện đại, báo chí cách mạng Việt Nam cần tiếp tục giữ vững vai trò định hướng dư luận, đồng hành cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, báo chí cách mạng vẫn cần giữ “lòng trong, bút sắc, tâm sáng” để làm tròn sứ mệnh cao cả với đất nước và nhân dân.
nguồn: Đặc san Người làm báo Hưng Yên số đặc biệt (phát hành tháng 6/2025)