Những cây bút lừng danh của một thời lửa đạn

Chủ nhật - 08/06/2025 09:47
Có một thời, người làm báo Việt Nam không chỉ ngồi bên bàn viết. Họ đi trong mưa bom, lội suối băng rừng, ghi chép trong ánh đèn dầu tù mù hay ánh chớp của mưa đạn. Có một thế hệ nhà báo đã viết nên những bản tin bằng máu, bằng hơi thở của núi rừng, bằng nhịp tim của cả một dân tộc đang đi qua chiến tranh. Họ là những cây bút lừng danh của một thời lửa đạn, những chiến sĩ cầm bút, dấn thân, kiên trung, đặt ngòi bút lên hàng đầu vì độc lập dân tộc, vì nhân dân.
chan dung nb 2
Có một thế hệ nhà báo đã viết nên những bản tin bằng máu, bằng hơi thở của núi rừng, bằng nhịp tim của cả một dân tộc đang đi qua chiến tranh.
Báo chí giữa khói lửa chiến tranh

Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, rồi đế quốc Mỹ. Báo chí cách mạng trở thành một bộ phận không thể tách rời trong mặt trận văn hóa - tư tưởng. Những tờ báo như Cứu quốc, Sự thật, Quân đội nhân dân, Giải phóng, Văn nghệ giải phóng… được phát hành ngay trong rừng sâu, trong hang đá, ở tiền tuyến. Có khi là bản in ronéo chép tay, có khi chỉ là bản tin viết phấn trên bảng nứa giữa lán trại đơn sơ, nhưng chứa đựng sức mạnh tinh thần to lớn, là tiếng nói kết nối hậu phương và tiền tuyến, là công cụ để cổ vũ, tổ chức và dẫn dắt quần chúng.

Lúc ấy, làm báo là một hành động cách mạng và người phóng viên, nhà báo chính là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Họ ra trận không chỉ để phản ánh mà để sống cùng cuộc chiến, để đưa câu chuyện của nhân dân, của bộ đội, của quê hương đến với cả nước. Họ viết không phải để giải trí, mà để nuôi dưỡng niềm tin, để lan tỏa tinh thần chiến đấu và đôi khi… là để tiễn biệt những đồng đội vừa ngã xuống.

Những cây bút viết giữa bom đạn


Trong hàng ngũ những nhà báo cách mạng thời ấy, nhiều người đã trở thành huyền thoại. Nhà lãnh đạo, nhà thơ Tố Hữu cũng có thể gọi là nhà báo bởi ông từng trực tiếp chỉ đạo công tác tuyên truyền và báo chí trong kháng chiến. Có người đã từng ví, thơ Tố Hữu đã “vẽ” lại bức tranh lịch sử của cách mạng nhân dân Việt Nam thông qua các chặng đường hoạt động của người chiến sĩ cộng sản. Mỗi tập thơ của ông gắn với một giai đoạn lịch sử của dân tộc, từ khi ông giác ngộ cách mạng những năm 1937, cho đến khi đất nước giành độc lập, rồi trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cho đến ngày thống nhất đất nước… Những vần thơ của ông vừa là văn học, vừa là tuyên truyền cách mạng: “Thưa mẹ, con đi…” không chỉ là câu thơ, mà là lời tiễn đưa nghẹn ngào của hàng triệu bà mẹ tiễn con vào chiến trường.

Nhà báo Hữu Thọ, cây bút bình luận sắc sảo, người nhiều năm làm Tổng Biên tập báo Nhân Dân. Nhà báo Hữu Thọ làm báo chuyên nghiệp từ tháng 8/1957, là cây bút phóng sự điều tra về nông nghiệp, nông thôn và tiểu phẩm thế sự có dấu ấn trong lòng bạn đọc. Trong cuộc đời hoạt động báo chí của mình, Nhà báo Hữu Thọ nổi tiếng bằng hàng loạt tác phẩm báo chí với nhiều thể loại khác nhau, từ bình luận, tiểu phẩm, bút ký, đối thoại đến phê phán… được bạn đọc quan tâm đón nhận, bởi nó phản ánh chân thực muôn mặt của cuộc sống, thẳng thắn phản ánh những tiêu cực của xã hội để cùng nhau cảnh tỉnh, điều chỉnh, làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Chính vì vậy, các tác phẩm ấy luôn đưa đến cho bạn đọc nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Ông là mẫu mực của nhà báo “có tâm, có tầm”, bản lĩnh và trung thực, dám nói lên sự thật, dám bảo vệ cái đúng.

Với nhà báo Nguyễn Thành Lê, lại nổi bật bằng vốn ngoại ngữ vững vàng và lý luận sắc bén, từng là gương mặt của Việt Nam trên mặt trận báo chí đối ngoại. Từ Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, người phát ngôn chính của Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris. Tại Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, Nguyễn Thành Lê được giao nhiệm vụ phụ trách báo chí của Đoàn Việt Nam, do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Tại Hội nghị Genève 1961-1962 về Lào, ông là người phát ngôn của đoàn ta. Đến Hội nghị Paris 1968-1973, ông là thành viên chính thức Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy dẫn đầu, một lần nữa ông lại làm người phát ngôn. Đấu trí với hàng trăm nhà báo nước ngoài - có người cố tình lạm dụng danh nghĩa báo chí làm công việc khiêu khích qua những câu hỏi hàm ý xấu - vị đại diện Việt Nam với thái độ từ tốn nhưng sắc sảo, làm sáng tỏ lập trường của đoàn ta, bác bỏ lập luận sai trái, khiến một số người có mưu đồ đen tối nhiều lần sượng mặt. Nguyễn Thành Lê luôn tỏ ra là người chủ động trong việc xử lý các câu hỏi của phóng viên quốc tế và ông khéo léo dẫn chứng bằng những câu trả lời mang phong vị của người Việt Nam, hài hước nhưng đầy tính mở.


Song song với đó là một đội ngũ đông đảo nhà báo chiến trường, những người lặng lẽ nhưng không kém phần quả cảm. Họ chính là những “con mắt”, “trái tim” của hậu phương nơi tiền tuyến. Họ là nhà báo Trần Kim Xuyến - liệt sỹ đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam nói chung và Thông tấn xã Việt Nam nói riêng (nhà báo Trần Kim Xuyến hy sinh trong kháng chiến chống Pháp khi mới 24 tuổi). Ông là nhà lãnh đạo đầu tiên của Thông tấn xã Việt Nam, ông đã để lại nhiều dấu ấn trong hoạt động Quốc hội, hoạt động báo chí, đặc biệt xây dựng Thông tấn xã từ những ngày đầu bằng việc phát đi toàn văn bản Tuyên ngôn Độc lập bằng 3 thứ tiếng Việt, Anh và Pháp vào ngày 15/9/1945. Hay nhà báo Trần Mai Hưởng - tác giả bức ảnh xe tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975, biểu tượng bất tử của thời khắc lịch sử chấm dứt chiến tranh. Là Đoàn Công Tính, người ghi lại “Nụ cười thành Cổ” giữa trận chiến 81 ngày đêm tại Quảng Trị; những chân dung bộ đội Trường Sơn, thiếu nữ dân công, thương binh… bằng những bức ảnh lay động tâm can. Hay tên tuổi nhà báo, nhà văn Dương Thị Xuân Quý bà từng là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, Văn nghệ Giải phóng, bà đã ngã xuống ở chiến trường Quảng Đà khi tuổi đời còn rất trẻ. Bà để lại những trang nhật ký đau đáu về cuộc sống, tình yêu và niềm tin vào lý tưởng. Cái chết của bà là một lời nhắc thiêng liêng về sự hy sinh thầm lặng của những người phụ nữ cầm bút giữa chiến tranh.
chan dung nb 5
Đưa bộ đội qua sông (ảnh chụp tại Quảng Trị năm 1972 của Đoàn Công Tính)
Ảnh: TL
Viết để sống, viết để chiến thắng

Trong chiến tranh, phóng viên không có “phòng họp báo”. Họ có thể tác nghiệp dưới làn mưa pháo, trong căn hầm trú ẩn, bên cạnh thương binh hay giữa cánh rừng âm u. Máy ảnh có khi là tài sản quý hơn cả khẩu súng, sổ tay được bọc bằng vải dù chống nước, bút chì gọt sẵn trong túi áo. Bản thảo được chuyển bằng “người đưa tin”, bằng ngựa thồ, hoặc chính phóng viên phải vượt hàng chục cây số rừng để về hậu cứ gửi bài. Những bài báo, bức ảnh, phóng sự ấy đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng tinh thần yêu nước, củng cố niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ và vào một ngày chiến thắng. Báo chí không đứng ngoài chiến tranh. Báo chí là một phần của cuộc chiến.

Hôm nay, đất nước hòa bình, nhưng những bước chân, những trang viết của các nhà báo cách mạng tiền bối vẫn in đậm trong ký ức nghề nghiệp. Họ là những người đặt nền móng cho nền báo chí không chiều theo thị hiếu, không bán rẻ sự thật, mà sống chết với chân lý, với độc lập dân tộc và hạnh phúc nhân dân. 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam là dịp để tri ân thế hệ làm báo trong lửa đạn, những người đã biến ngòi bút thành vũ khí, biến báo chí thành sức mạnh và để lại cho hậu thế không chỉ là bài học nghề nghiệp, mà còn là bản lĩnh sống, là đạo đức người làm báo.

NLBHY

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây