Nhà báo Xuân Thủy - người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh và con đường đến với báo chí Cách mạng Việt Nam
Thứ ba - 04/06/2024 16:28
Cố nhà báo Xuân Thủy (1912 - 1985) tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm tham gia hoạt động cách mạng và nghề báo rất sớm, ông có những đóng góp quan trọng đối với cách mạng nước nhà nói chung và sự nghiệp báo chí cách mạng Việt Nam nói riêng. Ông là một chính khách, một nhà ngoại giao xuất chúng và là nhà báo tài ba, người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhà báo Xuân Thủy (1912 - 1985) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước tại xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm (nay thuộc quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội), từ nhỏ ông đã được cha dạy chữ Hán, bồi đắp tinh thần bằng những câu chuyện dân gian, những áng thơ mang đậm hồn dân tộc. Ông cũng thường xuyên được tiếp xúc với những người bạn của cha khi họ gặp nhau, bàn luận về thời thế... Điều đó dần hình thành trong ông tinh thần yêu nước, thôi thúc ông đến với cách mạng. Trong hồi ký, nhà báo Xuân Thủy tự bạch: “Thấy tôi hay đi Hà Nội, lần nào về, cha tôi cũng hỏi đi đâu, làm gì? Mà có gì đâu để cha tôi phải lo. Tôi cuốc bộ hơn 10 cây số đi Hà Nội rồi lại cuốc bộ về chỉ cốt qua các hiệu sách báo xem có gì mới, đồng thời cũng nghe ngóng xem có gì lạ mà nông thôn không biết...”. Qua báo chí, ông biết được nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Và ông sớm giác ngộ cách mạng, quyết tâm dấn thân vào con đường đầy nguy hiểm, gian khổ này. Ông là ngọn bút tiên phong của báo chí cách mạng Việt Nam, là người dày công xây dựng, tổ chức đội ngũ báo chí; có tầm ảnh hưởng quốc tế và vũ khí báo chí trong đấu tranh ngoại giao. Còn theo cuốn sách nhan đề “Xuân Thủy - Nhà hoạt động chính trị, ngoại giao xuất sắc, nhà báo, nhà thơ lớn” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, năm 2012, khi nói về khởi nguồn cuộc đời hoạt động cách mạng và báo chí, ông tự bạch : “Vào khoảng năm 1934 - 1935, tôi từ tỉnh Hà Đông đến thị xã Phúc Yên. Ở đây tôi mở hiệu thuốc Đông y với môn thuốc gia truyền, cốt để kiếm sống và dễ bề giao thiệp. Tôi cũng nhận làm thông tin viên cho báo Trung Bắc Tân Văn để dễ bề đi lại hoạt động. Hồi này ở Phúc Yên hầu như chưa có phong trào cách mạng, tôi cũng chưa phải đảng viên cộng sản. Những người giác ngộ tôi ở quê đều đã bị bắt cả rồi. Tôi không liên lạc được với ai trong tổ chức cách mạng cả. Tuy nhiên, với nhiệt tình cách mạng của tuổi trẻ, một mình, tôi cứ lao vào hoạt động, chẳng sợ sệt gì cả...”.
Với quyết tâm và sự giác ngộ, khi ở tuổi đôi mươi, Xuân Thủy sớm có bài đăng trên các báo của Hà Nội, như bài thơ “Loạn lung tung” (bút danh Xuân Thủy) đăng trên Hà Thành Ngọ Báo. Ông cũng là ký giả, có bài đăng trên các báo "Tin Tức", "Đời Nay"....Và bút danh Xuân Thủy trở thành tên gọi của ông đến khi qua đời. Trong quá trình hoạt động cách mạng, giai đoạn 1940 - 1941, Xuân Thủy bị chính quyền Pháp bắt, đày lên nhà tù Sơn La, sau lại bị đưa đi căng Bắc Mê (Hà Giang). Sau khi hết hạn tù tại căng Bắc Mê, ông bị đưa về giam tại nhà tù Sơn La lần thứ hai. Tại đây, Xuân Thủy được tổ chức phân công phụ trách báo Suối reo, tờ báo ra đời nhằm đoàn kết, giáo dục, động viên các lực lượng trong nhà tù trên bước đường phấn đấu. Báo Suối reo xuất bản trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nguy hiểm. Trong nhà tù thiếu thốn mọi bề, giấy mực có được nhờ tù nhân đấu tranh kiên quyết trong một thời gian dài với lý do “viết thư cho gia đình” mới được bọn cai ngục đồng ý. Tuy nhiên, nếu đánh hơi thấy có bất thường thì bao nhiêu giấy, mực, bút, đều bị chúng thu hết. Trong cuốn sách “Xuân Thủy - Nhà hoạt động chính trị, ngoại giao xuất sắc, nhà báo, nhà thơ lớn”- Nhà xuất bản Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, năm 2012, ông hồi tưởng: “Chúng tôi đã mắc một ngọn đèn điện vào một xó tường cách xa cửa ra vào, lại bịt không cho ánh sáng tỏa ra ngoài và hơn nữa, đặt người canh cửa để hễ có tiếng động là tắt đèn ngay... Lại đêm nay, sao mà báo động luôn thế, làm chúng tôi phải dọn luôn cả “bàn giấy” và “xưởng in” vào nhà xí! Gọi là “bàn giấy” và “xưởng in” cho oai, chứ thực ra chỉ vẻn vẹn hai cái túi vải đựng tài liệu, giấy, bút, mực. Viết thì người đứng, người ngồi, người để lên bàn tay, người đặt lên đầu gối, người kê lên sàn, lên đống chăn đắp, mỗi người mỗi kiểu...” Tuy nhiên, với tinh thần lạc quan cách mạng, nhà báo Xuân Thủy vẫn gieo những vần thơ của mình vào tờ Suối reo để động viên các chiến sĩ cách mạng, anh em bạn tù, củng cố niềm tin vững chắc về một ngày mai tươi sáng:
“Sơn La những núi cùng non Dù cho đá lở vẫn còn Suối reo Hôm nay rừng nặng sương chiều Ngày mai nắng sớm lưng đèo nở hoa”.
Khoảng cuối năm 1943, từ nhà tù Sơn La, Xuân Thủy được đưa về quản thúc tại quê nhà. Năm 1944, ông thoát ly, được tổ chức phân công phụ trách báo Cứu Quốc, cơ quan tuyên truyền của Tổng bộ Việt Minh. Trong hồi ký, ông kể: “Sau khi chia tay với anh Toàn (bí danh của đồng chí Trường Chinh), tôi qua một số trạm liên lạc rồi đến một địa điểm thuộc huyện Tiên Du (nay là huyện Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Chờ ở địa điểm này một ngày thì anh Phúc (tức đồng chí Nguyễn Khang), anh Mẫn (Lê Quang Đạo) đến gặp tôi...Anh Phúc nói: Gặp anh, chúng tôi rất mừng. Báo Cứu Quốc trước kia ở trên phụ trách, nay giao về dưới này, chúng tôi bận quá, báo ra thất thường. Nay anh về chuyên trách tờ Cứu Quốc thì hay quá... Chúng tôi sẽ giới thiệu với anh một đội công tác để giúp anh những việc trên, kể cả việc tìm địa điểm mới của tờ báo”. Nhà báo Xuân Thủy vừa làm chủ nhiệm tờ báo, vừa là cây bút chính với nhiều bút danh như: Chu Lang, Tất Thắng, Ngô Tất Thắng... Dưới sự lãnh đạo của nhà báo Xuân Thủy, Cứu Quốc trở thành tờ báo lớn nhất, có ảnh hưởng nhất cả nước lúc bấy giờ, mở ra một trang sử mới cho nền báo chí cách mạng Việt Nam. Nhiều tên tuổi của Báo Cứu Quốc đã đi vào lịch sử báo chí cách mạng như: Nguyễn Ngọc Kha, Như Phong, Tô Hoài, Nguyễn Thành Lê cùng đội ngũ cộng tác viên tên tuổi như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tú Mỡ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Trần Văn Cẩn, Thép Mới... Đây cũng là tờ báo hằng ngày duy nhất của Đảng trong thời kỳ này, mở rộng phát hành đến các liên khu kháng chiến. Nhà báo Nguyễn Văn Hải, người bạn tù Sơn La được Xuân Thủy kết nối về làm quản lý báo Cứu Quốc đã nhận định: “Lịch sử báo Cứu Quốc trong những thời kỳ khó khăn nhất và oanh liệt nhất gắn liền với tên tuổi của Xuân Thủy”. Nhà báo Nguyễn Thành Lê, nguyên chủ bút báo Cứu Quốc, khẳng định: “Xuân Thủy là linh hồn của báo Cứu Quốc"
Trước những yêu cầu trong giai đoạn kháng chiến mới, năm 1948, Ðoàn báo chí kháng chiến Việt Nam được thành lập, do nhà báo Xuân Thủy phụ trách. Ðoàn báo chí kháng chiến tổ chức học tập chính trị, nghiệp vụ cho các nhà báo, hướng báo chí vào việc động viên toàn dân tham gia kháng chiến.
Năm 1949, kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn khốc liệt. Nhận thấy vai trò quan trọng của đội ngũ nhà báo cách mạng, theo sáng kiến của ông và sự đồng ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng bộ Việt Minh mở Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng và giao cho nhà báo Xuân Thủy lãnh đạo chung. Tuy chỉ mở được trong thời gian ngắn, khó khăn, thiếu thốn đủ bề, nhưng Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng, cơ sở đào tạo báo chí đầu tiên và duy nhất trong kháng chiến đã cho ra đời hàng nghìn bài báo ca ngợi cuộc đấu tranh của nhân dân ta, lên án tội ác và vạch trần âm mưu của kẻ thù. Đánh dấu thắng lợi đầu trên mặt trận tư tưởng, đặt nền móng cho sự phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam sau này.
Cuối tháng 3/1950, tại trụ sở báo Cứu Quốc ở xóm Roòng Khoa, xã Ðiềm Mặc, huyện Ðịnh Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Hội Những người viết báo Việt Nam được thành lập. Hội đã bầu ra Ban Chấp hành lâm thời, do nhà báo Xuân Thủy làm Hội trưởng. Nhà báo Xuân Thủy đã trực tiếp chỉ đạo các công việc chung của Hội Những người viết báo Việt Nam (sau đổi tên thành Hội Nhà báo Việt Nam) qua 2 nhiệm kỳ (từ 1950 đến 1962), thực hiện xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Chính phủ giao phó, đó là tập hợp, đoàn kết các nhà báo yêu nước trong một tổ chức, trở thành cầu nối giữa giới báo chí cách mạng Việt Nam và báo chí quốc tế. Nhà báo Nguyễn Thành Lê, nguyên Tổng Thư ký đầu tiên của Hội Những người viết báo Việt Nam, nhận định: “Đối với Hội Nhà báo Việt Nam, với các thế hệ báo chí cách mạng Việt Nam, đồng chí Xuân Thủy không chỉ là người sáng lập, vị Chủ tịch đầu tiên của Hội mà mãi là người thầy, người bạn, người anh gần gũi và thân thiết. Những đóng góp to lớn cho sự nghiệp báo chí cách mạng Việt Nam, đặc biệt là uy tín, đức độ, khiêm nhường, nhà báo Xuân Thủy đã để lại dấu ấn sâu đậm trong đồng nghiệp, bạn bè quốc tế, là tấm gương sáng cho các thế hệ nhà báo Việt Nam..
Tháng 7/1950, Ðại hội của Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ) họp ở Helsinki công nhận Hội Những người viết báo Việt Nam là thành viên chính thức của OIJ. Nhà báo Xuân Thủy là nhà báo Việt Nam đầu tiên được bầu làm Phó chủ tịch OIJ năm 1957 và là nhà báo đầu tiên của Việt Nam được tặng thưởng phần thưởng cao quý của tổ chức này. Từ tháng 5/1968, đồng chí Xuân Thủy giữ vai trò Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris. Trên mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam, lúc đó đã kết hợp nhiều hình thức đấu tranh, trong đó có hình thức đấu tranh tại các cuộc họp báo và trả lời phỏng vấn các nhà báo. Bên lề hội nghị, nhà ngoại giao, nhà báo Xuân Thủy đã chủ trì các cuộc họp báo lớn và trực tiếp trả lời phỏng vấn nhiều nhà báo, các hãng thông tấn nước ngoài. Khi nước nhà thống nhất, ngày 07/7/1976, với cương vị Bí thư Trung ương Đảng, đồng chí Xuân Thủy đã chủ trì hợp nhất Hội Nhà báo Việt Nam và Hội Nhà báo Yêu nước và Dân chủ miền Nam Việt Nam thành một tổ chức báo chí duy nhất, hoạt động trên phạm vi cả nước, lấy tên chính thức là Hội Nhà báo Việt Nam như hiện nay.
Suốt cuộc đời mình, với nhiều trọng trách ở nhiều lĩnh vực, nhà báo Xuân Thủy đã có những cống hiến xuất sắc, để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong các công tác ngoại giao, hoạt động báo chí, trong phong trào bảo vệ hòa bình, đoàn kết, hữu nghị quốc tế... Ông được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều phần thưởng cao quý khác.