Trận đại hồng thủy tháng mười ở Bắc miền Trung đã qua đi, nhưng dư ba của nó chắc còn lâu mới lắng lại. Khoa học hiện đại có nhiều phương tiện và phương pháp để kháng cự thủy quái, nhưng, lịch sử nhiều nghìn năm con người chung sống với thiên nhiên cũng để lại nhiều sự cân bằng bền vững mà hình như chúng ta đang bỏ qua và phá vỡ nó, và đã phải trả giá.
Khơi gợi lại đôi điều, tưởng không thừa.
Lệ Thủy là một khúc, “một đốt” của Việt Nam, có cả biên giới Việt Lào và duyên hải. Có ba vùng dân cư: Ven chân thềm Trường Sơn phía Tây, chân thềm Trường Sa phía đông và Vùng Giữa tả hữu sông Kiến Giang, con sông không chảy Tây-Đông như bình thường mà theo hướng Nam- Bắc. Trận đại hồng thủy chủ yếu giáng xuống... vùng giữa.
Cây chuối
Từ thuở khai canh lập làng, trẻ con Vùng Giữa tập bơi bằng cái gì? Chưa có áo phao, tấm xốp, can nhựa như bây giờ. Trưa mùa hè, ăn cơm xong, mỗi đứa trẻ năm sáu tuổi ôm một khúc cây chuối chừng bảy tám mươi phân theo anh chị xuống bến lặn ngụp. Sau một tuần là có thể thả khúc chuối để bơi gần bờ.
Đất phù sa châu thổ, vườn nhà ai cũng đầy chuối. Nuôi heo chủ yếu bằng thân cây chuối và rau lang trộn cám, thịt heo ngon hết biết. Mùa lụt (không phải lũ) Lụt “Hiện tượng nước dâng cao do mưa lũ gây ra, làm ngập cả một vùng rộng lớn...” (Từ điển tiếng Việt 1994), xóm tôi có một trăm gia đình, khoảng ba mươi chiếc thuyền gỗ và ba trăm chiếc “thuyền chuối”. Ấy là những chiếc bè ghép bằng thân cây chuối. Di chuyển trong nước sâu sóng to, thuyền có thể lật, bè thì không bao giờ. Bè nhỏ cho trẻ con chống đi chơi. Bè vừa vừa để người lớn thăm nhau. Bè lớn để gạo thóc nồi niêu bếp núc và người cùng chó mèo...Nước nổi bè nổi. Lụt tận trời thì bè... lên trời. Sợ nước lớn bè trôi thì níu vào ngọn tre, cây thân gỗ hay buộc cục đá thả neo.
Nếu lụt ít ngày, nước rút, bóc bớt vỏ ngoài, cây chuối ấy vẫn dùng cho heo ăn được. Tuổi thơ, tôi từng ngồi xắt (thái) chuối, băm nhỏ, trộn cám cho lợn và gà ăn. Chuối này chủ yếu là chuối sứ (chuối hột) cây to, lá to, dùng gói bánh đòn (bánh tét) bánh chưng. Quả chuối sứ phơi khô ngâm rượu nghe nói tốt cho cánh đàn ông. Căn nhà tổ phụ của tôi ở nơi thấp nhất của Lệ Thủy từ lâu không ai ở, chuối tốt như rừng. Cuối tháng chạp ta, mọi người tự do đến cắt lá chuối sứ gói bánh.
Sau này, nuôi heo bằng thức ăn công nghiệp, cây chuối mất dần vai trò. Sân nhà lát gạch, vườn đổ bê tông cho sạch sẽ, chuối không còn đất sống, lụt lớn, mỗi nhà không còn ba “chiếc thuyền” nữa. Gần đây, có người tài trợ ống nhựa làm bè thay chuối. Nhưng, mỗi năm lụt khoảng năm ngày, mười năm mới có trận lụt lớn. Cái bè nhựa cứ nằm đấy cả mười năm chờ lụt lớn cũng vô duyên, lại vướng. Còn cây chuối thì khác.
Cây chuối thân thuộc đến mức nhà thơ Nguyễn Trãi sáu trăm năm trước đã ví người con gái đồng trinh với cây chuối “Tình thư một bức phong còn kín/ Gió ở đâu, gượng mở xem”. Thanh niên quê tôi đi lập nghiệp ở đâu cho mệt, cứ trồng nhiều chuối, sắm cái máy xay xát lấy cám, nấu rượu lấy hèm. Chuối trộn cám trộn hèm, nuôi heo hữu cơ bán giá gấp rưỡi, gấp đôi. Mùa lụt lại sẵn thân chuối đóng bè lớn cho dân trú ngụ. Phương tiện chống lụt “tại chỗ’ đấy chứ đâu.
Cây tre
Học sinh một thuở đều thuộc lòng bài văn xuôi Cây tre Việt Nam của Thép Mới và bài thơ Tre xanh của Nguyễn Duy. Cây tre, thân thuộc lắm, hữu dụng lắm, đến mức Thánh Gióng có ngựa sắt phun lửa rồi mà vẫn dùng tre đánh giặc. Tre có mặt khắp nơi, từ đôi đũa trên mâm cơm đến võng đưa ru giấc ngủ. Ly hương, trở về, từ xa thấy lũy tre đung đưa và tiếng chim cu gù trên ngọn măng vòi đã nghẹn ngào ứa nước mắt. Đến cả khi “sa cơ thất thế” tre vẫn chung thủy. Một ngôi nhà ven sông sụt lún biến mất, nhưng bụi tre bị sụt lún vẫn nằm đấy, vươn ngọn lên giữ đất, gọi là “Tre trầm”. Nền văn minh nhựa và bê tông đã giết Tre. Người ta “Đào tận gốc trốc tận rễ” cà lũy tre để xây tường cao, cổng kín xa cách láng giềng. Tường cao bao nhiêu có cao bằng ngọn tre không? Mưa, nước dâng lên, lụt, lút bờ tường, ngập nóc nhà. Nếu có cái bối, cái bối lại buộc vào ngọn tre, mưa thì quàng áo, tạnh thì triển khai nấu cơm trên bối, ngồi trên bối, rót rượu cũng tốt.
Làng Cự Nẫm, thời chống pháp được coi là mô hình “Làng chiến đấu”, suốt bảy năm từ 1947-1954 quân Pháp không vào được, đâu phải do du kích mạnh mà là lính pháp không vượt qua được lũy tre. Tre dầy, rất nhiều rễ và gai dằng dịt nhau. Ca nông bắn cả ngày không phá nổi vài mét. Xây dựng nông thôn mới nhưng đừng xóa mất bản sắc dân tộc Việt. Có một loại tre Cán Giáo rất đẹp. Quê tôi có vùng gọi bằng cái tên rất xưa “Chằng Phày”, cây thẳng, đẹp như bó đũa, thân cũng cao và dẻo dai, mỗi cây trưởng thành sống khỏe đến cả mười lăm năm. Nếu vì nhu cầu để cảnh trí cho đẹp thì thay tre truyền thống bằng tre Cán Giáo. Không có tre, lụt thì có thể qua được, coi chừng lũ là trôi cả làng.
Nói thêm, xây tường rào bằng bê tông, liệu có đẹp bằng hàng rào chè tàu (chè mạn) xén vuông thành sắc cạnh. Khuất lấp giữa hàng rào chè là dây kẽm gai, vừa bảo vệ tư gia vườn tược vừa cảnh trí môi trường.
Con thuyền năm ván
Lệ Thủy vừa được vinh danh di sản Văn hóa quốc gia “Hò khoan Lệ thủy”. Đang làm hồ sơ vinh danh “Lễ hội Bơi thuyền”. Lễ hội này đã có ít nhất gần năm trăm năm. Sách Ô Châu Cận Lục của Tiến sĩ Dương Văn An tập thành năm 1555 đã miêu tả khá kỹ lễ hội bơi thuyền cầu mưa. Từ năm 1955, trở thành lễ hội bơi thuyền mừng tết độc lập 2/9/ hàng năm. Mỗi làng một thuyền bơi. Thường chia thành hai bảng, rồi bán kết, chung kết. Cung đường bơi trên sông Kiến Giang chừng 12 km, bơi ba vòng khoảng 72 km. Bơi cật lực gần hết buổi sáng. Trai bơi ngày trước quen lao động, gặt hái, chèo thuyền, rất khỏe. Thuyền nam bơi dầm, vẽ hình rồng vảy, đuôi rồng đầu rồng đẹp mắt. Thuyền nữ chèo tay, động tác đẹp như múa. Từ động tác lao động đến động tác bơi đua,vừa rèn luyện thể thao, vui chơi. Hàng năm, đến cuối tháng tám là người người dù làm ăn ở đâu cũng cố về để xem lễ hội bơi thuyền, đứng cổ động kín hai bờ sông. Nửa cuối tháng tám, suốt hai bờ đã náo nức tiếng mõ, tiếng hò hét của những thuyền hạ thủy tập dượt. Người đang ở nhà nghe tiếng mõ là ba chân bốn cẳng chạy xuống bờ sông. Sau lễ, thuyền bơi được bưng vào đình làng cất giữ, bảo quản chờ lễ hội năm sau. Chuyện thật như đùa, những năm hậu chiến đói kém, để thực hành tiết kiệm, có lần huyện chủ trương không bơi thuyền, các xã thôn dọa rằng, không cho bơi thuyền sẽ không tổ chức đại hội Đảng... Ngày nay, giao thông đường bộ quá thuận tiện. Thanh niên cưỡi xe máy đi làm ruộng, xe ô tô chở lúa từ đồng về. Con thuyền năm ván biến mất khỏi các bến sông. Vậy nên, khi hữu sự như trận đại hồng thủy vừa rồi, không có thyền cứu hộ cứu trợ, hỏi “tại chỗ” cái gì?!
Nhà cửa ven sông Kiến Giang xếp như hình xương cá. Các kiệt (gọi là Trổổng) chạy song song, kéo từ bến sông ra cánh đồng rộng. Mỗi trổổng chừng hai mươi nóc nhà. Phong trào thể thao bóng chuyền của thanh niên một thời rất sôi nổi. Nhân việc vinh danh lễ hội bơi thuyền, mỗi kiệt nên góp tiền sắm (lại) một chiếc thuyền đua nhỏ, cũng trang trí và đóng cặp cho các trai bơi như thuyền chính quy nhưng ít hơn. Mỗi chiều thứ bảy và chủ nhật, học sinh trung học phổ thông và lớp 8 lớp 9 cũng như viên chức nghỉ cuối tuần xuống bơi, từng tốp vài trổổng, tiếng mõ lóc cóc tiếng hò reo tạo không khí thể thao “nông thôn mới’ để rèn luyện thường xuyên cho ngày lễ hội bơi đua chính thức mồng một và 2/9. Mỗi Trổổng có một chiếc thuyền thường trực vừa phục vụ bơi thuyền thể thao vừa sẵn sàng ứng cứu khi lụt lớn.
***
Sau đèo Ngang vốn là đất Chiêm Thành. Năm 1069, để chuộc mạng, vua Chiêm Chế Củ đã cắt ba châu; Bố Chinh, Địa Lý và Ma Linh cho Đại Việt, chính là đất Quảng Bình và bắc Quảng Trị ngày nay. Gần nghìn năm sống với đất và nước này, người Việt đã tìm ra cách ứng xử với thiên nhiên khắc nghiệt, kháng cự và thuận theo. Nay, hình như chúng ta đã và đang phá vỡ sự cân bằng đó bằng văn minh công nghiệp và phải trả giá. Nên chăng, nghĩ lại để điều chỉnh, để giữ lại những giá trị vừa có tính văn hóa lại hữu dụng trong đời thường và cả khi hữu sự.
Tác giả: Nguyễn Thế Tường
Nguồn Văn nghệ số 45/2020
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
© 2022 Bản quyền thuộc về Người làm báo Hưng Yên.
Người làm báo Hưng Yên