|
Từ bao đời nay, người nông dân luôn được coi là “ân nhân” của các doanh nghiệp phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và lúa giống. Tuy nhiên giờ đây, nguồn thu của họ ngày càng “teo tóp” bởi những khoản lợi nhuận mang lại từ cây lúa đang có chiều hướng giảm dần. Trong khi đó, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, lúa giống lại có được doanh thu, lợi nhuận “khủng” và năm sau luôn cao hơn năm trước. |
Kỳ 1: Nghịch cảnh trên những cánh đồng lúa
Vật tư nông nghiệp tăng cả về lượng, giá trịĐối với người trồng lúa, vật tư nông nghiệp đầu vào có ba thứ quan trọng nhất là giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và bên cạnh đó là nhân công trực tiếp trên đồng ruộng. Tuy nhiên, những năm gần đây cả bốn thứ này đều tăng cả về số lượng, chủng loại, giá cả và đặc biệt là các doanh nghiệp (DN), đại lý tham gia hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực này. Trong đó, phân bón là vật tư nông nghiệp đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu để bảo đảm phát triển nông nghiệp hiệu quả và bền vững. Hiện nhu cầu sử dụng phân bón khoảng 11 triệu tấn các loại/năm, tăng trưởng khoảng 4%/năm. Một kết quả nghiên cứu cho thấy, cây lúa chiếm khoảng 65% về nhu cầu phân bón trong các loại cây trồng. Đến thời điểm hiện tại cả nước có khoảng 7.800 DN, đại lý nhập khẩu, sản xuất và kinh doanh phân bón, trong đó có 6.805 DN, hộ kinh doanh cá thể, đại lý kinh doanh phân bón. Nói về thị trường phân bón trong thời gian vừa qua, ông Hoàng Trung, Cục trưởng Bảo vệ thực vật Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cho rằng: “Những năm gần đây thị trường phân bón đang bị buông lỏng quản lý, nhất là việc kiểm soát về số lượng sản phẩm, chất lượng phân bón”. Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, số lượng các sản phẩm phân bón được hợp quy đang tăng rất mạnh, sau tám tháng, tính đến thời điểm hiện tại (sau khi tiếp nhận bàn giao từ Bộ Công thương từ tháng 1-2017) số lượng sản phẩm phân bón hợp quy tăng lên 14.174 sản phẩm, gấp 2,5 lần, trong đó phân bón vô cơ tăng 7.748 sản phẩm, phân bón hữu cơ và phân bón khác tăng 374 sản phẩm. Ông Hoàng Trung cho biết, đến thời điểm giữa tháng 10-2017, số lượng sản phẩm được hợp quy đã tăng lên khoảng gần 20 nghìn sản phẩm. Trên thực tế, lượng phân bón nhập khẩu và giá thị trường phân bón tiếp tục có xu hướng tăng. Tại thời điểm này giá phân ure trung bình từ 5.500 đồng đến 6.500 đồng/kg, tăng từ 300 đến 500 đồng so cùng kỳ 2016. Đồng thời trong bảy tháng đầu năm, Việt Nam nhập khẩu 549.441 tấn phân bón, có giá trị 153,6 triệu USD, tăng 33% về lượng và tăng 27,9% về giá trị. Đối với thị trường vật tư nông nghiệp thì trong những năm gần đây, giá phân bón luôn trong tình trạng biến động mạnh, “miếng bánh” được đánh giá là “ngon” nhất lại thuộc về thị trường thuốc bảo vệ thực vật để các DN khai thác. Bên cạnh đó, trong khoảng mười năm trở lại đây, giá của các loại thuốc bảo vệ thực vật, nhu cầu, quy mô hoạt động của ngành đều theo chiều hướng tăng dần đều. Ngay như thời điểm năm 2008-2009 nhu cầu cả nước khoảng 50 nghìn tấn thuốc bảo vệ thực vật/năm, giá trị khoảng 500 triệu USD. Nhưng hiện giờ, nhu cầu sử dụng khoảng từ 70 đến 100 nghìn tấn, với giá trị khoảng 800 triệu USD. Quy mô hoạt động của các DN tăng cả về số lượng, doanh thu hoạt động… Hiện cả nước có hơn 200 DN sản xuất, kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật, với gần 100 nhà máy chế biến thuốc, cùng khoảng 30 nghìn đại lý. Sản xuất trong nước chế biến được khoảng 50% lượng chế phẩm, phần còn lại nhập từ nước ngoài và phụ thuộc chính vào thị trường thuốc bảo vệ thực vật Trung Quốc. Theo số liệu từ Bộ NN&PTNT, trong năm tháng đầu năm 2017, nhập khẩu thuốc trừ sâu và nguyên liệu khoảng 400 triệu USD, tăng 41,1% so cùng kỳ, trong đó thuốc sâu nhập từ thị trường Trung Quốc chiếm khoảng 53,4%. Chiếm lĩnh thị phần lớn là các DN đều có sức tăng trưởng lớn như Tập đoàn Lộc Trời, Công ty CP Khử trùng Việt Nam, Công ty CP Nông dược… Trái ngược với bức tranh sáng của ngành vật tư nông nghiệp như thuốc bảo vệ thực vật, phân bón thì người nông dân trồng lúa ngày càng gặp nhiều khó khăn. Thậm chí, tại nhiều địa phương xảy ra tình trạng bỏ hoang hóa ruộng đồng hoặc người nông dân trong độ tuổi lao động đi làm công nhân ở khu công nghiệp, khu chế xuất tại các thành phố lớn ngày càng phổ biến. Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nơi được coi là “vựa lúa” của cả nước, giờ đây các địa phương đang tìm cách giảm diện tích trồng lúa chuyển sang trồng các loại rau màu, nuôi trồng thủy sản. Nguyên nhân chính là việc trồng lúa ngày càng gặp nhiều khó khăn về thời tiết, năng suất lúa không tăng, thị trường thiếu ổn định và đặc biệt là chi phí đầu vào ngày càng tăng khiến cho lợi nhuận từ trồng lúa ngày càng thấp, không bảo đảm cuộc sống. Ngay Đồng Tháp, một trong những tỉnh đi đầu của vùng ĐBSCL về lúa, trong nhiều năm qua lúa gieo sạ luôn có chiều hướng giảm cả về diện tích lẫn năng suất. Trong đó, vụ đông xuân 2016 - 2017 trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp gieo xạ được 207 nghìn ha lúa, năng suất bình quân đạt 5,68 tấn/ha, giảm 0,53 tấn/ha so vụ đông xuân 2015 - 2016; sản lượng ước đạt 1,175 triệu tấn, giảm gần 100 nghìn tấn và giảm so với kế hoạch khoảng 288 nghìn tấn lúa. Vụ lúa thu đông vừa qua toàn tỉnh Đồng Tháp chỉ gieo sạ được khoảng 138 nghìn ha, giảm 10 nghìn ha so với năm 2016. Ông Nguyễn Thành Tài, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Đồng Tháp cho biết: “Diện tích lúa giảm dần là chủ trương của tỉnh, bởi diện tích lúa ba vụ đang không mang lại năng suất cao, chi phí đầu vào luôn cao hơn, do đó, định hướng cho người dân chuyển dần từ lúa sang trồng màu và về lâu dài sẽ giảm diện tích trồng lúa”. Thực tế, người trồng lúa tại ĐBSCL đang phải “đánh vật” với thực trạng chi phí đầu vào năm sau luôn tăng hơn năm trước. Nói về điều này, ông Hồ Văn Lý, Phó trưởng Phòng NN&PTNT huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp cho biết: “So năm 2010, đến nay chi phí vật tư đầu vào như phân bón và thuốc bảo vệ thực vật cho cây lúa tăng khoảng 20%, trong đó tập trung chính ở những diện tích lúa trồng ba vụ. Riêng về phân bón trước đây, vụ hè thu chỉ khoảng 500 kg/ha nhưng giờ đây phải 700 kg/ha”. Theo ông Lý, vấn đề nằm ở chỗ, chi phí đầu vào tăng cao nhưng năng suất lúa ngày càng giảm bởi biến đổi khí hậu và điều quan trọng nhất là năng suất lúa đã ở mức đụng trần, khó có thể tăng thêm. Trong khi đó, tại Bến Tre hai năm trở lại đây, đã có chủ trương cắt giảm diện tích trồng lúa với hình thức tuyên truyền vận động người dân dần bỏ vụ ba để chuyển đổi sang trồng màu hoặc nuôi trồng thủy sản. Chủ tịch UBND huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre Nguyễn Văn Bé Sáu cho biết: “Trước đây huyện có khoảng 2.600 ha trồng lúa nhưng giờ giảm xuống còn khoảng 2.000 ha. Trong đó, không khuyến khích người dân trồng vụ ba và dần sẽ bỏ vụ ba. Ở thời điểm hiện tại, người dân trồng vụ ba chủ yếu là lấy rơm cho bò”. Thực tế, trên địa bàn huyện Giồng Trôm người dân trồng lúa đang gặp nhiều khó khăn khi thiếu trầm trọng lao động vào mùa thu hoạch. Do thiếu lao động, nên ngoài phần chi phí vật tư tăng cao thì giá thuê nhân công khi vào vụ cũng tăng gấp 1,5 lần so ngày thường. Theo tính toán của ông Nguyễn Bé Mười, ấp Bình Lợi, xã Bình Thạnh, huyện Giồng Trôm, với việc tăng chi phí như hiện nay, chỉ có hộ nào có lao động trực tiếp và ruộng của gia đình thì mới có thể tồn tại được, bởi họ lấy công làm lãi. Đối với trường hợp đi thuê đồng, mướn nhân công thì lỗ chắc. Hiện gia đình ông Bé Mười có tổng cộng 13 công đất (1,3 ha) trồng lúa, ngoài lao động của gia đình thì từ đầu năm nay ông đã áp dụng chương trình trồng lúa thông minh với việc giảm lúa giống gieo sạ chỉ khoảng 100 kg/ha nên đã giảm được nhiều khoản chi phí như giống, phân, số lượt xịt thuốc và bước đầu cho được mức thu nhập ổn định hơn từ cây lúa. |
|
Kỳ 2: “Ăn mòn” nhà nông |
Ở một góc độ nhất định, thì người trồng lúa và doanh nghiệp (DN) lúa giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đang cùng “canh tác” trên những thửa ruộng lúa. Vậy ở đây có thể dễ dàng nhận ra rằng, doanh thu, lợi nhuận của các DN là do “ăn” vào chính những khoản lợi nhuận mà đáng lẽ “ân nhân” của họ được hưởng. |
“Ba cùng”, người trồng lúa có “khốn cùng”? Không thể phủ nhận rằng, đối với nền nông nghiệp Việt Nam nói chung và người nông dân trồng lúa nói riêng thì những chương trình liên kết ba, bốn nhà hay thực hiện cánh đồng lớn đã mang lại hiệu quả nhất định, tạo ra cách làm mới và thổi một luồng gió mới trong nông nghiệp. Tuy nhiên, việc thực hiện những chương trình này đã bị không ít các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phân bón, lúa giống, thuốc bảo vệ thực vật lợi dụng! Nói về vấn đề này, có lần Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre, Cao Văn Trọng đã thẳng thắn nhìn nhận: “Các DN tham gia vào chương trình này chủ yếu để bán phân, thuốc bảo vệ thực vật”. Thực tế, sau khi đã thực hiện nhiều mô hình liên kết thì đến năm 2011, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) chính thức đẩy mạnh thực hiện chương trình “cánh đồng mẫu lớn” và được phát triển rộng rãi tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trong đó, Công ty CP bảo vệ thực vật An Giang (nay là Tập đoàn Lộc Trời) là đơn vị tiên phong thực hiện chuỗi giá trị từ “cánh đồng mẫu lớn”. Một trong những điểm để gắn kết được với người nông dân là Tập đoàn Lộc Trời đã đẩy mạnh chương trình “cùng nông dân ra đồng” hay còn gọi là lực lượng “ba cùng” với mô hình đưa các kỹ sư nông nghiệp cùng ăn, cùng ở và cùng làm với người nông dân. Mô hình “ba cùng” được xây dựng từ năm 2006, ban đầu triển khai đồng loạt tại các tỉnh trong vùng ĐBSCL. Đến nay được triển khai rộng các tỉnh, thành phố, có sự tham gia đầu tư của Tập đoàn Lộc Trời. Kể từ khi triển khai lực lượng “ba cùng” (với ba nhóm ngành hoạt động chính là thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thu mua chế biến lúa gạo và một phần sản xuất lúa giống), tập đoàn có những bước tăng trưởng mạnh mẽ cả về quy mô, doanh thu và lợi nhuận. Năm 2006, tổng doanh thu của Tập đoàn Lộc Trời mới chỉ đạt 1.470 tỷ đồng; đến năm 2011 là 4.869 tỷ đồng và năm 2016 đạt 7.783 tỷ đồng, lợi nhuận ròng đạt hơn 347 tỷ đồng (gấp bảy lần doanh thu và hơn ba lần về lợi nhuận khi cổ phần hóa năm 2004). Đến thời điểm hiện tại, tập đoàn này là đơn vị chiếm thị phần lớn nhất về thuốc bảo vệ thực vật với hơn 20% và là DN tư nhân đầu tiên xây dựng chuỗi sản xuất lúa gạo từ nghiên cứu, ứng dụng đến chuyển giao và phối hợp với nông dân sản xuất. Hiện tập đoàn có Trung tâm nghiên cứu thuộc công ty tư nhân lớn nhất, đồng thời có hơn 1.300 kỹ sư nông nghiệp (trên tổng số khoảng 3.400 cán bộ, nhân viên tập đoàn) cùng ăn, cùng ở và cùng làm với 40.000 nông dân để sản xuất gạo hữu cơ, gạo sạch và chất lượng cao. Nhìn vào những số liệu nêu trên thì có thể thấy được, đó là mơ ước của tất cả các tập đoàn, DN đầu tư vào nông nghiệp. Nhưng ngược lại nhìn vào những “đối tác” là những nông dân trồng lúa luôn được coi là “ân nhân” của Tập đoàn Lộc Trời thì sao? Theo thống kê từ tập đoàn này tại các xã Vĩnh Lộc, Vĩnh Bình, Vĩnh Long thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang; tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp (vùng trọng điểm trong liên kết cánh đồng lớn của Tập đoàn Lộc Trời), vụ hè thu năm 2016, năng suất lúa trung bình là 5,39 tấn/ha, giá lúa 3.199 đồng/kg, người trồng lúa thu về 30 triệu đồng/ha, trừ chi phí (giống, phân, thuốc và công) khoảng 17,2 triệu đồng và lợi nhuận là 12,8 triệu đồng/ha; vụ đông xuân 2016 - 2017, năng suất lúa đạt trung bình 4,8 tấn/ha, giá 3.425 đồng/kg, người dân thu về 28,2 triệu đồng/ha, lợi nhuận 12,2 triệu đồng. Do vụ thu đông (vụ ba) năng suất lúa thấp, chi phí cao lên người trồng lúa chỉ hòa hoặc lỗ. Giải thích về mức tính lợi nhuận này ông Nguyễn Tường Chinh, Phó Giám đốc ngành lương thực Tập đoàn Lộc Trời cho biết: “Phần chi phí này chưa bao gồm tiền thuê đất. Trong đó, có những nông dân thuê đất để trông lúa và có nông dân trồng lúa trên đất của mình”. Theo khảo sát của phóng viên, tại các địa phương có nhiều diện tích lúa trong liên kết “cánh đồng lớn” của Tập đoàn Lộc Trời để thuê đất trồng lúa, có giá khoảng 30 triệu đồng/ha/năm. Như vậy, nếu tính hết các khoản phí và được tính theo thị trường thì người trồng lúa tại vùng ĐBSCL không hề có lời mà bị thua lỗ. Trước những diễn biến thực tế thì con số lỗ sẽ ngày càng tăng bởi phải đội giá vật tư nông nghiệp luôn tăng cao và tác động của biến đổi khí hậu. Một vấn đề đặt ra là: Liệu lực lượng “ba cùng” có giúp gì cho người trồng lúa hay chỉ là “cánh tay” nối dài để các DN áp dụng chính sách bán hàng của mình? Khi được hỏi về vai trò chính của lực lượng “ba cùng” tại các HTX nông nghiệp, giám đốc HTX nông nghiệp Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, nằm trong chuỗi liên kết của Tập đoàn Lộc Trời, cho rằng: “Vai trò chính là tư vấn về kỹ thuật cho người trồng lúa”. Vậy cả hàng chục năm nay lực lượng “ba cùng” đã tư vấn như thế nào mà người trồng lúa ngày càng nghèo đi và Tập đoàn Lộc Trời lại có những bước tăng trưởng đột biến? Lối thoát nào cho người trồng lúa Với những gì đang diễn ra, liệu có phải là bản “lỗi” của cơ chế, chính sách về nông nghiệp trong quá trình phát triển về cây lúa mà trong đó đã đến lúc cần phải nhìn nhận lại? Trong này, có thể thấy được các DN đang mải mê “làm giàu” mà bỏ “qua” những bước phát triển bền vững. Nói về điều này, GS, TS Mai Văn Quyền, nguyên Phó Viện trưởng Nông nghiệp miền Nam cho rằng: “Việc phát triển trong sản xuất, kinh doanh hay tổ chức thực hiện các mô hình liên kết trong nông nghiệp như hiện nay đang phụ thuộc rất nhiều vào đạo đức kinh doanh của các DN, cán bộ quản lý. Bởi trong tay các DN đều có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, kỹ sư nông nghiệp nhưng nhiều chính sách, giải pháp đưa ra đều hướng đến có lợi cho DN”. Mặc dù số lượng về DN hoạt động kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, lúa giống, thu mua chế biến lúa gạo tăng mạnh nhưng tại vùng ĐBSCL thường xuyên xảy ra tình trạng thiếu giống lúa chất lượng. Tình trạng phân bón và thuốc bảo vệ kém chất lượng vẫn bao phủ lên những cánh đồng lúa. Bộ NN&PTNT đã rất nhiều khuyến cáo về việc dư thừa phân bón trên đồng lúa. Cụ thể, tính trên đơn vị diện tích thì lượng phân bón sử dụng trung bình 1.000 kg/ha/năm đất sản xuất nông nghiệp, 750 kg/ha diện tích gieo trồng; hiệu quả của việc sử dụng phân bón hiện nay đạt 40 - 45% với phân đạm, 25 - 30% với phân lân và 55 - 60% với phân kali, trung bình hiệu quả sử dụng phân bón chỉ đạt 45 - 50%. Như vậy, có thể hiểu được rằng hiện người nông dân đang sử dụng dư thừa khoảng 50% lượng phân bón các loại. Với những DN thực tế thường xuyên gắn với những cánh đồng lúa các nhà khoa học và hàng nghìn kỹ sư nông nghiệp là lực lượng “ba cùng” tại Tập đoàn Lộc Trời, chỉ cần đưa ra giải pháp phù hợp để tiết giảm lượng dư thừa này đã có thể giúp cho người trồng lúa cắt giảm rất lớn chi phí đầu vào. Nhưng cắt giảm chi phí này cho người trồng lúa thì liệu có ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận của DN? Theo GS, TS Mai Văn Quyền, với thực tế hiện nay thì chi phí đầu vào liên tục tăng đang “ăn mòn” nhà nông. Và để tăng lợi nhuận cho người trồng lúa thì điều trước tiên cần tập trung tiết giảm chi phí vật tư nông nghiệp. Có một minh chứng thực tế từ bài học về tiết kiệm chi phí đầu vào cho người trồng lúa đang tạo ra hiệu ứng rất lớn tại vùng ĐBSCL là việc giảm lượng lúa giống gieo xạ. Xuất phát từ chủ trương giảm chi phí đầu vào cho người trồng lúa từ vụ Đông xuân 2016 - 2017, HTX nông nghiệp Vinacam Tri Tôn, tỉnh An Giang đã ứng dụng việc gieo xạ từ 100 đến 120 kg lúa giống/ha (giảm khoảng 100 kg lúa giống so trước đây) và ngay từ vụ đầu tiên không chỉ năng suất lúa đạt trên 10 tấn/ha mà còn giảm thuốc bảo vệ thực vật, phân bón. Sau khi được nhân rộng, việc giảm lượng giống lúa gieo xạ tại một số địa phương đã cho thấy không chỉ năng suất lúa tăng mà đã cắt giảm khoảng 4,5 triệu đồng/ha từ giảm lúa giống, phân bón, thưốc bảo vệ thực vật do cây lúa khỏe, phát triển tốt và ít sâu bệnh hơn. Một bài toán rất đơn giản, giảm khoảng 100 kg lúa giống/ha, với giá 15 nghìn đồng/kg thì người trồng lúa đã tiết kiệm được khoảng 1,5 triệu đồng/ha. Với diện tích gieo xạ tại vùng ĐBSCL từ 1,6 đến 1,8 triệu ha/vụ thì người trồng lúa tại đây có thể tiết kiệm được hàng nghìn tỷ đồng/vụ. |
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
© 2022 Bản quyền thuộc về Người làm báo Hưng Yên.
Người làm báo Hưng Yên