Bình dân học vụ số – bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau

Thứ hai - 18/08/2025 11:33
Từ phong trào “diệt giặc dốt” năm 1945, tinh thần khai sáng dân trí đã trở thành một giá trị bền vững của cách mạng Việt Nam. Bước vào kỷ nguyên số, yêu cầu “bình dân học vụ số” lại được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết, nhằm phổ cập kỹ năng công nghệ cho mọi tầng lớp nhân dân. Không chỉ giúp người dân tiếp cận dịch vụ công trực tuyến, thanh toán điện tử, khai thác kho tri thức mở, chương trình còn góp phần thu hẹp khoảng cách số giữa các vùng miền, thế hệ. Đây chính là cách để bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình xây dựng xã hội số, công dân số và nền kinh tế số ở Việt Nam.
18 8 2025bh tham mot lop bdhv
Bác Hồ thăm một lớp bình dân học vụ. (Ảnh tư liệu)
Số liệu thực tế nổi bật của Việt Nam - đầu năm 2025:
Dân số: 101 triệu người.
Kết nối di động: 127 triệu kết nối (126% dân số), 100% là kết nối băng rộng 3G/4G/5G.
Người dùng Internet: 79,8 triệu (78,8% dân số), tăng 223 nghìn người so với 2024.
Người dùng mạng xã hội: 76,2 triệu (75,2% dân số), tăng 3,5 triệu so với đầu 2024.
Tốc độ Internet: Di động đạt 75,72 Mbps (+60,9%), cố định đạt 153,99 Mbps (+46,6%).
Mục tiêu 2025: 100% người dùng di động Việt Nam sử dụng smartphone, thông qua các gói hỗ trợ và trợ giá điện thoại thông minh giá rẻ.
(Nguồn: Datareportal 2025, Bộ TT&TT)
Những con số trên cho thấy nền tảng để triển khai “bình dân học vụ số” đã sẵn sàng: internet phủ sóng rộng khắp, tốc độ truy cập được cải thiện đáng kể, tỷ lệ sở hữu smartphone ngày càng cao. Điều đó cũng đồng nghĩa, thách thức lớn nhất không còn nằm ở hạ tầng, mà ở khả năng phổ cập kỹ năng sử dụng và tạo cơ hội cho mọi người dân tiếp cận. Nói cách khác, “mù chữ số” chính là vấn đề cần giải quyết khẩn thiết hiện nay. Người dân có thể cầm trên tay chiếc điện thoại thông minh, nhưng nếu không biết dùng để khai thác dịch vụ công trực tuyến, để giao dịch ngân hàng số, để tra cứu thông tin chính xác hay để bán hàng qua mạng xã hội, thì chiếc điện thoại ấy chỉ mới dừng lại ở vai trò công cụ liên lạc, chưa thể trở thành chiếc chìa khóa mở cánh cửa tri thức và cơ hội.

Mục đích của phong trào này là dân chủ hóa tri thức công nghệ, làm cho công nghệ số không chỉ là công cụ của một số ít, mà trở thành năng lực chung của cả cộng đồng. Trong một thế giới nơi mọi giao dịch, dịch vụ, hoạt động sản xuất và thậm chí giao tiếp hàng ngày đều dần dịch chuyển lên không gian số, việc không biết sử dụng công nghệ chẳng khác nào một hình thức “mù chữ” mới. Người không có kỹ năng số sẽ bị hạn chế trong tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, hành chính công; sẽ khó khăn trong tìm việc làm, mở rộng thị trường, nâng cao thu nhập; và cũng dễ bị tổn thương trước những nguy cơ của môi trường mạng. Vì thế, bình dân học vụ số không chỉ giúp nâng cao năng lực cá nhân, mà còn góp phần thu hẹp khoảng cách số, bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy phát triển toàn diện.
18 8 2025bdhv so o xa nguyen van linh
Tỉnh đoàn Hưng Yên đang triển khai chiến dịch cao điểm 30 ngày đêm mở lớp “Bình dân học vụ số” kết hợp tập huấn chuyển đổi số cho hơn 2.000 cán bộ Đoàn, Hội, Đội và trên 20.000 tình nguyện viên toàn tỉnh.
Thực tế đã có nhiều mô hình triển khai hiệu quả: Ở tỉnh Hưng Yên, nông dân trồng nhãn đã biết đưa nông sản lên sàn thương mại điện tử, bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cả nước thay vì chỉ dựa vào thương lái. Tương tự,  đồng bào dân tộc của tỉnh Sơn La cũng được tập huấn sử dụng smartphone để cập nhật thông tin thời tiết, mùa vụ, ứng dụng bản đồ số trong sản xuất nông nghiệp. Ngay tại Hà Nội và TP.HCM, nhiều câu lạc bộ “người cao tuổi học công nghệ” đã hình thành, giúp các cụ biết đặt lịch khám bệnh từ xa, sử dụng ví điện tử để thanh toán viện phí và đặc biệt là duy trì liên lạc với con cháu qua video call. Trong các khu công nghiệp, không ít công nhân đã được hướng dẫn cách dùng ứng dụng BHXH số, ngân hàng số, tránh tình trạng phải chờ đợi làm thủ tục trực tiếp. Những dẫn chứng ấy cho thấy, phong trào bình dân học vụ số đang dần đi vào đời sống, không phải là khẩu hiệu xa vời.

Điểm nổi bật của phong trào chính là sự kết hợp giữa tinh thần quần chúng và bảo đảm chính sách. Nếu như trong quá khứ, người dân “dạy nhau học chữ” với ngọn đèn dầu và tấm bảng tre, thì nay, người dân có thể “dạy nhau học công nghệ” qua các lớp học cộng đồng, qua mạng xã hội, qua những buổi tập huấn do đoàn viên thanh niên tổ chức... Các tổ chức đoàn thể như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Người cao tuổi trở thành lực lượng nòng cốt phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp viễn thông, ngân hàng số, nền tảng thương mại điện tử để lan tỏa phong trào.

Điều quan trọng là chương trình không chỉ dừng ở việc dạy kỹ năng sử dụng công cụ, mà phải hình thành năng lực số toàn diện cho người dân. Một nông dân không chỉ biết cách vào mạng xem giá nông sản, mà còn phải biết phân biệt tin chính thống và tin giả. Một tiểu thương không chỉ biết cách dùng ví điện tử, mà còn cần biết cách bảo mật dữ liệu. Và mỗi học sinh không chỉ biết tải bài học trên mạng, mà còn biết sử dụng công cụ số để sáng tạo, chia sẻ tri thức… đó mới là nền tảng để hình thành công dân số thực thụ.

Phong trào này còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Khơi dậy tinh thần tương trợ: người biết công nghệ giúp người chưa biết, thế hệ trẻ hướng dẫn thế hệ cao tuổi, người ở đô thị hỗ trợ người ở nông thôn. Khi một bà cụ vùng cao có thể tự gọi điện video cho con cháu đi làm ăn xa, khi một bác nông dân có thể bán lô nhãn lồng Hưng Yên qua sàn thương mại điện tử, khi một em học sinh miền núi có thể học trực tuyến với thầy cô ở Hà Nội, khi một công nhân có thể đăng ký bảo hiểm qua điện thoại mà không cần xếp hàng chờ đợi… đó chính là những minh chứng sống động cho hiệu quả của “bình dân học vụ số”.

Tương lai của phong trào gắn liền với tầm nhìn xây dựng xã hội số toàn diện của Việt Nam. Mục tiêu không chỉ dừng ở việc số hóa dịch vụ công hay phát triển thương mại điện tử, mà là hình thành một môi trường số nhân văn, nơi mọi người dân đều có thể tham gia, thụ hưởng và cống hiến. “Bình dân học vụ số” sẽ không thể thành công nếu chỉ là chiến dịch ngắn hạn, mà phải trở thành phong trào thường xuyên, liên tục, gắn với đời sống thực tế.
18 8 2025bdhv so o xa tien la
Hoạt động không chỉ góp phần nâng cao năng lực chuyển đổi số cho đội ngũ cán bộ, đoàn viên, thanh niên mà còn lan tỏa tinh thần học tập suốt đời, thúc đẩy xây dựng chính quyền số, xã hội số và mô hình chính quyền địa phương hai cấp theo hướng hiện đại, hiệu quả.”
Nhìn lại lịch sử, chúng ta có quyền tự hào vì đã từng viết nên câu chuyện kỳ diệu về bình dân học vụ, đưa đất nước từ nạn mù chữ đến nền giáo dục phổ cập. Hôm nay, với “bình dân học vụ số”, chúng ta lại đứng trước cơ hội viết tiếp một chương mới: đưa đất nước từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số, từ xã hội văn minh chữ viết sang xã hội văn minh số hóa. Nếu như năm 1945, khẩu hiệu “diệt giặc dốt” vang lên đầy khí thế, thì hôm nay khẩu hiệu “không ai bị bỏ lại phía sau trong kỷ nguyên số” sẽ trở thành lời hiệu triệu mới. Đó không chỉ là trách nhiệm, mà còn là khát vọng xây dựng một Việt Nam sáng tạo, nhân văn, phát triển và hội nhập.

“Bình dân học vụ số” chính là cách chúng ta nối dài cánh tay từ quá khứ đến tương lai. Nó không chỉ là chương trình đào tạo kỹ năng công nghệ, mà là phong trào văn hóa – xã hội lớn, có sức lan tỏa và tạo chuyển biến mạnh mẽ. Nó nhắc nhở mỗi người dân rằng tri thức luôn là sức mạnh và trong thời đại mới, tri thức số chính là tấm vé thông hành để bước vào thế giới phẳng. Nó cũng khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước và toàn dân trong việc xây dựng một xã hội công bằng, sáng tạo, nơi mọi người dân đều được trao cơ hội học tập, phát triển và cống hiến. Và khi ấy, ánh sáng của “bình dân học vụ số” sẽ tỏa rạng, trở thành ngọn đuốc soi đường cho hành trình Việt Nam đi tới tương lai.

 
NLBHY

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây