Bùi Ngọc Quỹ còn gọi là Bùi Quỹ, tự Hữu Trúc, sinh ngày 28-10-1796 tại làng Hới Thiên, xã Hải Triều, huyện Tiên Lữ
Ông đỗ Cử nhân khoa Mậu Tý (1828), đỗ đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu (1829) làm quan triều Nguyễn, bổ chức Hàn lâm viện biên tu đời Minh Mệnh. Sau đó, ông được cử làm Tri phủ huyện Triệu Phong, thăng Án sát tỉnh Quảng Trị, Hình bộ Tham tri triều Thiệu Trị. Năm Tự Đức thứ nhất (1848), Bùi Ngọc Quỹ được giao Chánh sử sang nhà Thanh xin cầu phong. Khi về, ông làm Sử quán biên tu. Năm Canh Tuấn (1850) bị giáng cấp, năm Tân Hợi (1851) phục chức làm Án sát Tuyên Quang thăng Hồng lô tự khanh, Hàn lâm viện Trực học sĩ. Năm Tự Đức thứ 12, ông được bổ Tổng đốc Bình Phú (Bình Định- Phú Yên).
Bùi Ngọc Quỹ là vị quan tài đức thanh liêm, đồng thời là người có năng khiếu văn chương. Ông để lại một số tập thơ, văn chữ Hán: Hữu Trúc thi tập, Yên Đài anh thoại, Hải phái thi văn tập. Trong thời gian đi sứ, Bùi Quỹ viết: Sứ trình anh thoại khúc, Yên hành khúc, Yên hành tổng tác. Thơ văn ông phản ánh hiện thực cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Cuộc đời, thơ văn Bùi Quỹ thể hiện phẩm chất, tâm hồn nhà nho cương trực, giàu nhân ái, luôn bênh vực người nghèo, ghét kẻ xu nịnh, ức hiếp kẻ yếu.
Năm Kỷ Dậu (1849). Bùi Ngọc Quỹ dâng tấu đề xuất với Tự Đức cho soạn bộ sách Đại Nam nhất thống chí và bộ Đại Nam nhất nhã thống biên. Thế nhưng, mãi đến năm Ất Sửu (1865), hai bộ sách mới được khởi soạn, năm Nhâm Ngọ (1882) hoàn thành.
Bùi Ngọc Quỹ cùng Nguyễn Văn Siêu soạn Đại Việt địa dư toàn biên. Ông Bùi soạn phần chính biên, ông Nguyễn soạn phần tiền biên. Sách chưa xong thì Bùi Ngọc Quỹ mất (ngày 18 tháng 3 năm Tân Dậu- 1861). Năm Nhâm Ngọ (1882), niên hiệu Tự Đức thứ 35, triều Nguyễn Dục Tông (1847-1883), bộ sách soạn xong gồm 5 quyển. Mười tám năm sau, năm Canh Tý (1900), sách được khắc in.