Lưu Quý Kỳ, tâm sự với anh

Thứ tư - 06/03/2019 11:12
 
Phan Quang
(Nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam
Phó Chủ tịch Tổ chức Quốc tế các nhà báo – OlJ)

Chạy trời không khỏi nắng. Thế là tôi phải ngồi vào cái ghế quản lý của anh Lưu Quý Kỳ.

Phòng làm việc của con người nổi tiếng trong giới báo chí Việt Nam và nước ngoài ấy ở tầng hai tòa nhà lớn vốn là một trường trung học dành cho con Tây thời Pháp. Đúng hơn đó là một hành lang phía tây của một phòng học. Mùa hè nắng chiếu vào tận lớp của phòng trong, làm cho cái hiên nóng như thiêu như đốt, bởi vì người ta xây nó là để chịu nắng, để đỡ cho các cậu ấm ngồi dọc ở trong lớp. Mùa đông thì rét vì hứng gió bấc. Dù đã đóng kín cửa, không biết gió ở đâu vẫn cứ hút dọc theo cái hiên.
Nhà báo Phan Quang
Nhà báo Phan Quang
Vì là hành lang cho nên nó dài và hẹp. Một đầu kê cái bàn làm việc của anh Kỳ. Một chiếc bàn lim cổ lỗ, nặng nề không biết có từ bao giờ mà gỗ đã đen như sắt và lên nước bóng loáng như được đánh xi. Bốn cái chân rất thô, đỡ hai dãy ngăn kéo vừa sâu vừa rộng, không ngăn nào có khóa. Đầu kia được ngăn lại sơ sài, kê những giá gỗ lớn xếp các loại báo xuất bản ở Sài Gòn thời chống Mỹ. Đầy đủ các loại báo ngày, báo tuần, báo tháng được đóng thành tập gáy xanh mạ bạc. Đấy là tư liệu rút từ cái kho lưu trữ ở Nha Chiến tranh tâm lý, Dân vận chiêu hồi hoặc từ một cơ quan gì đó của Hoàng Đức Nhã ở Sài Gòn, mang ra đây. Ở giữa một cái bàn thấp và dài, phù hợp với kích cỡ của cái hiên, hai bên kê hai cái băng không có lưng tựa. Cái bàn ấy để giao ban hằng ngày. Nó cũng đủ dài cho thủ trưởng ngả lưng khi thấm mệt – anh Kỳ vốn không phải là người có sức khỏe tốt.

Tôi để ý trên mặt bàn làm việc có nót một tấm kính dày, rất dày, dễ đến tám hoặc mười ly, thế mà vỡ mất một mảnh ở góc phải, lại có một vết nứt chạy dài vào giữa. Anh em cho biết:

- Ấy, có một mùa đông rét quá, anh Kỳ đặt cái bếp điện lên mặt bàn để sưởi cho đỡ cóng tay, hơi nóng làm vỡ mất tấm kính.

Chiếc ghế anh ngồi thật xứng đáng với chiếc bàn. Một cái ghế bành gỗ lim có tay dựa – cái duy nhất trong cả Vụ - bọc đệm xanh đã sờn: khi ngồi lên cảm thấy rõ rệt cài lò xo trong đệm mút nó thúc lên người.

Tôi lục các ngăn kéo để loại bỏ những thứ lổn nhổn trong đó. Rồi nhờ an hem lau chùi sơ qua trước khi xếp tài liệu của mình vào. Anh Kỳ đi công tác ngắn ngày, cho nên cái ngăn kéo vẫn y nguyên như thường nhật, và cũng chưa có ai kịp động vào. Một vài cuốn sổ tay ghi chép dở dang. Mấy thứ tài liệu bằng tiếng Việt và tiếng Pháp chắc đang đọc dở. Một vài cuốn sách. Một chiếc phong bì thư. Và rất nhiều… bụi bặm.

Trong một cái cặp bìa cứng, có bản kiểm điểm của anh, viết tay. Một bản tự kiểm điểm định kỳ, mà vào cuối năm bất cứ cán bộ phụ trách nào cũng phải làm, một cái lệ rất nghiêm ngặt thời đó. Cũng chỉ là liệt kê những việc đã thực hiện, đánh giá ưu, khuyết điểm, rồi tự nhận xét. Rút kinh nghiệm… Đại thể là vậy. Ở mục lối sống, tôi chú ý một câu: “…Tôi sống lương thiện bằng đồng lương và tiền nhuận bút…”. Hai từ lương thiện anh dùng để tự nhận xét làm tôi suy nghĩ mãi, sao anh lại dùng từ ấy, và có lẽ vì thế mà tôi còn nhớ mãi cho đến bây giờ.
Nhà báo Phan Quang trao đổi với các đồng nghiệp ( Áo trắng, giữa ảnh)
Nhà báo Phan Quang trao đổi với các đồng nghiệp ( Áo trắng, giữa ảnh)
Tôi quen anh Lưu Quý Kỳ đã lâu, từ năm 1948.

Khi tôi vào làm việc ở tòa báo Cứu quốc liên khu 4 thì cũng vào lúc anh giã từ tờ báo này, chuẩn bị vào Nam công tác. Tôi nghe tiếng anh, nhưng thật ra ngày hồi ấy cũng chưa được đọc nhiều lắm những bài viết ký tên Lưu Quý Kỳ. Còn lại trong trí nhớ tôi có lẽ là bài “Công chúng mới”, tham luận tại Đại hội Văn nghệ khu, có nhiều nhận xét rất mới và khá sắc sảo. Có lẽ tại hồi ấy anh cũng đã bận công việc quản lý rồi, mặt khác lại thiên vê bên văn nghệ nhiều hơn bên báo chí. Thế mà trên danh nghĩa, ngoài trách nhiệm phụ trách báo Cứu quốc, anh còn làm tờ tạp chí Kháng chiến đồng thời tham gia ban phụ trách tờ Sáng tạo tập san chuyên đăng sáng tác và lý luận, phê bình văn học. Ba cơ quan báo chí đóng gần nhau, trong một vùng nửa đồng bằng nửa trung du thuộc tỉnh Thanh Hóa, từ đây có đường lên Việt Bắc, tuy xa xôi vất vả nhưng thông suốt.

Tôi có gặp anh Kỳ nhiều bận, trong các cuộc họp báo chí, văn nghệ, hoặc trong các buổi gọi là liên hoan, anh em tổ chức ăn “tươi” với nhau một bữa. Ấn tượng anh để lại trong tôi là một con người nói năng mực thước, hình như phần nào cũng có cứng rắn hơn, nguyên tắc hơn và cũng kín đáo hơn so với phần đông anh chị em văn nghệ, báo chí hồi bấy giờ. Anh vào Nam rồi, chúng tôi ở ngoài này thỉnh thoảng có nhận được một vài tờ báo hoặc tạp chí từ nam bộ xa xôi gửi ra. Tôi gặp lại cái tên Lưu Quý Kỳ. Nhưng dạo này hình như anh không làm văn nghệ, không viết ký hoặc tùy bút văn học – một thế mạnh của anh sau này – mà nghiêng về chính luận về phong trào, về thời sự chính trị nhiều hơn.

Cũng như tất cả những người cầm bút cùng thế hệ với anh hoặc trước anh. Lưu Quý Kỳ viết báo, viết văn do năng khiếu bẩm sinh. Làm gì có trường đào tạo, và cũng chẳng được ai bồi dưỡng cho, trừ chút vốn ít ỏi thu nhận ở nhà trường phổ thông giống như tất cả học sinh khác. Nhưng cái năng khiếu ấy, may thay, thường bộc lộ rõ ngay từ những trang viết đầu tay. Các bậc đàn anh trong nghề hoặc chính người viết sau này, khi đã trưởng thành, giở chồng báo cũ đọc lại, hẳn nhận ran gay những điểm non nớt, thậm chí ngây thơ của mình. Song trong sự non nớt ấy vẫn có một cái gì đó lóe lên, tươi tắn, mới mẻ. Cái lóe lên ấy theo tôi chính là năng khiếu. Cái lóe lên ấy, sẽ là cái cốt giữ cho người cầm bút “đứng” được bao nhiêu biến thiên của cuộc sống, cưỡng lại sự cuốn hút của những công việc khác, những nghề nghiệp khác có thể vẻ vang hơn, có nhiều lợi ích hơn so với nghiệp văn chương.
 
luu quy ky2

Đọc bài báo đầu tay của Lưu Quý Kỳ, thấy rõ cái lóe sáng ấy.

Mới mười sáu tuổi, cậu học sinh tỉnh lẻ Lưu Quý Kỳ đã có truyện ngắn đăng trên một tờ báo xuất bản tại Hà Nội. Mười bảy tuổi anh đã có bài đăng báo, đĩnh đạc luận về nhiệm vụ của thanh niên trước thời cuộc. Mười tám tuổi anh đã làm thư ký tòa soạn ba tờ báo khác nhau ở Sài Gòn. Hai mươi tuổi, anh làm chủ bút cơ quan ngôn luận của Đoàn Thanh niên Dân chủ Nam kỳ. Và, bởi năng khiếu và cũng bởi đam mê, anh tiếp tục làm cái nghề vất vả, bạc bẽo nhưng vô cùng thú vị ấy cho đến khi đột ngột nằm xuống ở cái tuổi sau mươi ba.

Có tài liệu – công bố sau khi anh qua đời – nói Lưu Quý Kỳ đã viết khoảng 3.000 bài báo. Tôi không rõ con số ấy, dù là ước lượng, dựa vào đâu. Báo chí khác với văn học. Ai có ít nhiều học vấn cũng có thể kể ra tên những tiểu thuyết, những vở kịch hoặc tập thơ chính của Victor Hugo. Nhưng không một ai, kể cả tác giả, có thể nghĩ rằng các tác phẩm báo chí của ông sẽ được in ra những mười tập khổ lớn. Việc này chỉ trở thành hiện thực sau nhiều năm, khi người ta công bố toàn tập tác phẩm của đại văn hào. Cũng như vậy, mãi một trăm năm mươi năm sau khi Stendhal qua đời, nhờ một công trình nghiên cứu, người ta mới biết rằng tác giả Đỏ và Đen vào thời kỳ sáng tạo văn học phong phú nhất, vẫn từ Paris gửi bài đến đều đặn cho hai tờ báo ở London suốt mấy năm liền. Gần đây thôi, nhà xuất bản Stock mới cho phát hành cuốn sưu tập những bài báo của ông cộng tác với hai bài báo nước ngoài thời ấy, dày gót một nghìn trang! Có thể nói như vây về Gabriel Marquez, về Albert Camus, về Constantine Simonov, về… Ấy là chỉ kể vài ba cây đại thụ.

Người làm báo không đếm tác phẩm của mình. Thích thì viết. Cần thì viết. Bắt buộc thì viết. Tôi nói bắt buộc vì nhà báo làm nghề báo còn để có cái sống, hoặc để làm nhiệm vụ được giao mà người ta không thể khước từ để làm theo ngẫu hứng. Cũng chẳng nhà báo nào nghĩ đến hậu thế khi cầm trong tay cây bút hoặc ngồi xuống trước máy chữ hay máy vi tính. Nhà báo viết những bài có ký tên. Có những bài ký bút danh mình lựa chọn và có thể sẽ dùng trong suốt cuộc đời. Phần còn lại nhiều rất nhiều bài, ký những cái tên nôm na hoặc chữ nghĩa mà nhà báo vừa nghĩ ra khi đặt bút chấm dấu hết cho bài viết. Những cái tên ấy ngày hôm sau anh đã quên ngay, thảng hoặc sau này có nhớ lại thì cũng không hiểu tại sao lúc ấy mình lại bịa cái tên ấy chứ không phải cái tên nào khác. Những bài không ký tên thì ai làm sao mà tính được. Song không vì thế mà nó không là một phần trong sự nghiệp người ký giả.

Là một cán bộ cốt cán của Đảng trên mặt trận văn hóa và đối ngoại, Lưu Quý Kỳ sau khi tập kết ra Bắc năm 1954, bận rất nhiều công tác. Anh từng làm Phó chủ nhiệm Ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài, đồng thời cùng với Phan Thao làm đồng chủ bút báo Thống nhất kiêm nhiệm Vụ trưởng báo chí kiêm nhiệm Tổng thư ký Hội Nhà báo, v.v… Không kể đến chức ủy viên của hội đồng nọ mà bất cứ cán bộ nào ở cương vị phụ trách nào cũng không thể từ nan. Ra miền Bắc, anh viết cho nhiều tờ báo, tạp chí và đài phát thanh, ký nhiều bút danh khác. Nhưng, cho dù đam mê đến đâu và tài năng không thiếu, anh vẫn không thể nào dành nhiều thời gian công sức cho việc viết. Đây là bi kịch chung của những người sáng tạo phải làm công tác quản lý.

Lưu Quý Kỳ đã xuất bản 27 cuốn sách thuộc nhiều chủ đề và thể loại. Có báo, có thơ, có bình luận văn học. Một số cuốn ra đời cũng còn tùy theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị từng lúc. Còn các bài báo của anh thì vẫn nằm rải rác trên các trang báo, chẳng mấy ai còn lưu giữ.

Kế nhiệm Lưu Quý Kỳ, một trong những việc đầu tiên tôi nghĩ đến từ tình bạn lâu năm là bàn với anh chị em cộng sự thân cận với anh sưu tầm cho xuất bản một tuyển tập các bài ký của Lưu. Ký là một thế mạnh của anh và cũng là một thể loại qua đó công chúng biết nhiều về nhà báo họ Lưu. Anh nổi tiếng về những bài tùy bút. Đài Tiếng nói Việt Nam hằng năm vẫn chọn hoặc đặt anh viết để phát sóng vào lúc giao thừa đón xuân.

Được sự giúp đỡ của Nhà xuất bản Văn học, chị Thái Tuyết Mai đã làm rất nhiệt tình và hiệu quả công việc này. Tuy vậy, mãi hơn một năm sau, tập ký Tâm sự với anh cũng chỉ dày có hơn 200 trang thôi mới ra đời – công việc in ấn hồi ấy còn nhiêu khê lắm, đâu phải dễ như bây giờ! Bài đầu trong tập tuyển này, anh viết năm anh hai mươi tuổi, và bài cuối, trước khi anh mất không lâu. Cách nhau một thời gian những bốn thập niên.

Nhưng sự nghiệp của một người cầm bút không chỉ tính bằng năm tháng và số lượng bài vở. Qua tập ký, dù chưa phản ánh đầy đủ các tác phẩm của người viết, vẫn có thể nhìn thấy tài năng, kiến thức và nghề nghiệp của anh.
 
Quang cảnh hội thảo Lưu Quý Kỳ với báo chí cách mạng Việt Nam
Quang cảnh hội thảo Lưu Quý Kỳ với báo chí cách mạng Việt Nam
Muốn hiểu sự nghiệp trọn đời của một người viết văn viết báo, không thể không xem xét hệ thống đề tài mà người ấy đề cập, tức là những vấn đề mà người ấy hằng quan tâm. Một trong những bài viết đầu tay của Lưu nói về tự do, “Tuổi trẻ và tự do”. Lưu Quý Kỳ đã tiếp cận những vấn đề lớn nhất của thời đại. Anh viết về tình cảm Bắc Nam da diết khi nước nhà chưa thống nhất, về tư tưởng không có gì quý hơn độc lập tự do, về Bác Hồ, về biển cả, song núi còn đây, về anh bộ đội Cụ Hồ, về thời cuộc miền Nam trong nước sôi lửa bỏng, về niềm vui đoàn tụ trong độc lập, thống nhất, về nước Việt Nam trong lòng nhân dân thế giới…

Tư duy của anh nhất quán, khen chê dứt khoát. Hiểu biết rộng, nắm bắt đúng thời cuộc, anh phân tích có lý có tình. Lời văn chọn lọc, gợi cảm. Ký của Lưu thiên về tùy bút chính luận. Anh không quan tâm lắm đến các chi tiết cụ thể của đời sống thường ngày. Có lẽ do điều kiện công tác, anh cũng không có nhiều cơ hội tiếp cận những con người ở cơ sở. Ký của anh không giàu chi tiết sống. Bù vào chỗ đó, anh sử dụng thành thục những tư thống lại, nâng lên và khéo léo trình bày làm rung động người đọc, người nghe. Nói về người thân, anh không nề hà để lộ tâm tư thầm kín. Về bạn bè quốc tế, lời lẽ anh đằm thắm, chân tình. Với đối phương, anh lạnh lùng, sắc bén nhưng không thô kệch – đúng như thái độ cần có của một người làm đối thoại dạn dày kinh nghiệm.

Bài Lưu Quý Kỳ phê phán nhà văn Mỹ John Steinbeck, tác giả Chùm nho nổi giận đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 5-1967, được đăng lại trên tạp chí Thế giới tri thức ở Nhật Bản và trích đăng ở nhiều nước khác, là một bài đặc sắc. Giá trị cả bài là ở chỗ phân tích cụ thể. Tác giả phê phán J.Steinbeck qua những lời nói và hành động cụ thể của y chứ không phải bằng những lời đao to búa lớn nặng tính chủ quan.

Có một chuyện khác đáng được nhắc lại nhân một bài ký xúc động của Lưu Quý Kỳ. Mùa đông năm 1972, đế quốc Mỹ ném bom rải thảm Hải Phòng, Hà Nội. Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam là một trong những mục tiêu phải bị tiêu diệt. Mấy năm trước, máy bay Mỹ đã ném bom lại rơi lệch, cách một ngôi nhà và trúng Đại sứ quán Pháp ở Hà Nội, làm mấy người thiệt mạng và gây nên chuyện rầy rà về ngoại giao. Lần này, chúng cố tình bắn phá hai đài phát sóng ở Bạch Mai và Mễ Trì, và hủy diệt cả khu tập thể của cán bộ công nhân Đài ở đường Đại La. Mấy trăm gia đình phút chốc bị mất nhà cửa.

Tin tức được nhiều đài phát thanh và hãng thông tấn truyền đi. Nhân dân trong nước cảm thông. Bạn bè nước ngoài lo lắng. Trong một bài tùy bút về sự kiện ấy, Lưu Quý Kỳ viết:
“Tiếng nói thân yêu ấy đột nhiên nghẹn lại lúc 4 giờ 51 phút sáng ngày 19-12-1972, khi đang phát ra những bản nhạc theo yêu cầu của đồng bào miền Nam.

- Điều gì đã xảy ra?

Từ 19 giờ đêm ấy, hang đàn quạ đen khổng lồ mang nhãn hiệu B.52 Hoa Kỳ đã ào ạt bay vào bầu trời Hà Nội. Bom đạn trút xuống như mưa. Tiếng nổ chát chúa làm rung chuyển cả thành phố. Cả nước hướng về Tiếng nói Việt Nam, đón nghe tin tức. Toàn thế giới chờ nghe sự thật phát ra từ thủ đô nước Việt.

Tiếng nói ấy nghẹn lại rồi!

Một phút. Hai phút. Ba phút.

- Điều gì đã xảy ra?

Bao nhiêu người hồi hộp. Trái tim của đồng bào ta đã quen đập theo nhịp tim Tổ quốc.
- Hà Nội ra sao rồi?

Đúng chín phút sau, giọng dịu hiền, trang nghiêm, trầm tĩnh thân yêu lại phát ra:

“Đây là Tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội…”

Tiếng nói Việt Nam, tiếng nói kiên cường, bất khuất. Tiếng nói không gì dập tắt nổi. Tiếng nói mãi mãi vang dội khắp non sông…”

Bài tùy bút của Lưu Quý Kỳ được dịch ra và phát thanh bằng tiếng Nhật. Ít lâu sau, Đài tiếng nói Việt Nam nhận được một bức điện của Chủ tịch Công đoàn Truyền thanh dân gian Nhật Bản, ông Katemura, cho biết công đoàn của ông đã ghi âm bài bút ký, gửi xuống 200 tổ truyền thanh ở cơ sở vận động ủng hộ các đồng nghiệp ở Việt Nam. Chỉ sau một tuần đã quyên góp được năm triệu yên. Ông đề nghị gửi hai cán bộ kỹ thuật sang Nhật dùng số tiền ấy chọn mua thiết bị phát thanh thay thế cho những thiết bị hư hại vì bom Mỹ, tốn kém đi về do bạn giúp.

Số tiền không lớn, nhưng tác động chính trị và nhất là tình cảm bạn bè quốc tế đối với nhân dân Việt Nam thì không có thước nào đo được.

Viết một bài ký mà tạo nên cả một tác động dây truyền như vậy, chỉ một việc ấy thôi, tôi nghĩ cũng đủ là một vinh dự, một phần thưởng xứng đáng cho cả cuộc đời cầm bút.
 

Nguồn tin: Trích từ tập: Lưu Quý Kỳ - Sông núi còn đây

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây