Tháng 3 năm 1928, Hải Triều đăng bài báo đầu tiên trên báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng khi ông 20 tuổi. Kể từ đó, báo chí đã luôn luôn gắn bó mật thiết với cuộc đời ông, trở thành thứ vũ khí mạnh mẽ theo ông trên từng bước đường tranh đấu vì lý tưởng cách mạng. Hoạt động báo chí của Hải Triều hình thành theo 3 thời kỳ mà ranh giới được nhận diện bởi những cuộc tù đày, giam lỏng.
Thời kỳ đầu từ năm 1928 đến cuối năm 1930, trước khi bị chính quyền thực dân bắt, bỏ tù, Hải Triều lấy bút danh Nam Xích Tử và cộng tác viết bài cho 2 tờ báo: Tiếng Dân, Kỳ lân. Trong khoảng thời gian hơn 2 năm, ông để lại 5 tác phẩm, trong đó có hai tác phẩm luận bàn về chiến tranh: Cuộc chiến tranh thế giới sau này đăng 4 kỳ trên báo Tiếng Dân: số 66 ngày 31/3, số 67 ngày 04/4, số 69 ngày 11/4 và số 70 ngày14/4/1928; Cái nhân quả của cuộc chiến tranh thế giới, báo Kỳ lân số 17 ra ngày 22/9/1928; chuyên luận Tư bổn chủ nghĩa đăng trên 3 kỳ báo Kỳ lân: số 62 ngày 02/3, số 63 ngày 05/3, số 69 ngày 18/5/1929; và hai bài bình luận ngắn xung quanh vụ ám sát Alfred François Bazin, Giám đốc Tổng nha nhân lực Đông Dương, một tên trùm thực dân đã gây nhiều tội ác trong khi mộ phu cho các đồn điền ở Trung Kỳ, Nam Kỳ và các đảo quốc thuộc địa của Pháp ở nam Thái Bình Dương.
Một điều dễ nhận thấy, Hải Triều đều dựa trên những cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin để nhìn nhận, lý giải và đánh giá các vấn đề, sự kiện thời sự. Khi viết về Cuộc chiến tranh thế giới sau này, hay Cái nhân quả của cuộc chiến tranh thế giới, ông cho rằng “cái nguyên động lực của chiến tranh thế giới ngày nay là kinh tế”. Đó là nền kinh tế hàng hóa trong xã hội tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì càng khát nguồn tài nguyên, nguyên liệu, càng thúc bách nhu cầu mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Việc tranh giành thuộc địa để khai thác tài nguyên và thị trường để bán hàng giữa các nước “liệt cường” mới và cũ chính là nguyên nhân của chiến tranh thế giới. Bởi “Trong khi tìm kiếm đó thế nào lại khỏi gặp nhau, gặp nhau tất phải đánh nhau, ấy là cũng một lẽ thường của lối cọp đàn trâu chiếc, một mỡ mười mèo, thì cái thủ đoạn miệng gầm tay bấu vẫn không phải lạ vậy”. Cùng với sự tranh giành “lợi quyền kinh tế” giữa các nước đế quốc, Hải Triều cho rằng còn có mâu thuẫn giữa “hữu sản giai cấp với vô sản giai cấp”, giữa “bọn tư bản, địa chủ với công nhân, nông dân”. Đó là “ba cái yếu tố phát sinh ra chiến tranh thế giới”. Và ông dự báo “Trận thế đã dàn ra đó, còn sự hơn thua ra thế nào thì bây giờ chưa có thể đoán được, nhưng ta có thể chắc chắn rằng nếu trận chiến tranh này mà xảy ra thì sự hung ác gớm ghê trong trường lưu huyết có thể gấp mấy lần Âu chiến năm 1914-1918 vậy, mà các xã hội loài người sau cuộc tàn sát dã man này ra thế nào là một điều nên ngẫm nghĩ”. Và 11 năm sau dự báo của ông, Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã nổ ra dẫn đến sự tàn sát khủng khiếp nhất mà lịch sử loài người được biết đến, làm cho trên 50 triệu người chết, hàng vạn thành phố, làng mạc bị san phẳng. Giải thích về chiến tranh bằng lý luận kinh tế chính trị học và xã hội học mácxít, từ đó đi đến dự báo chính xác về chiến tranh từ tính chất tất yếu đến tính chất khốc liệt nó, Hải Triều không chỉ thể hiện tài năng của cá nhân mình, mà còn minh chứng cho tính khoa học của học thuyết mác xít mà ông là môn đồ tự nguyện.
Tác phẩm Tư bổn chủ nghĩa trước hết là một luận văn tuyên truyền, giúp cho người đọc rộng rãi thấy được, hiểu được thực chất của chủ nghĩa tư bản là gì. Bằng những ví dụ, cách giải thích đơn giản, đễ hiểu, Hải Triều đã trình bày, lý giải một cách khái quát toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản từ khi phát sinh cho đến thời kỳ “khoách trương” sức mạnh và dự báo tiền đồ của nó trong tương lai. Hơn thế nữa, Tư bổn chủ nghĩa còn là một bản án nghiêm khắc, thẳng thắn đối với những tội lỗi mà chủ nghĩa tư bản đã gây nên. Ngay câu mở đầu bài báo, ông viết: “Xương chất thành núi, máu chảy thành sông, loài người giết nhau như cắt cỏ hồi năm 1914-1918; lịch sử nhơn loại chưa có khi nào trông thấy một cuộc chém giết ghê gớm như vậy. Duyên cớ vì đâu? Không phải vì chủ nghĩa tư bổn đó ư?”. Câu hỏi đó chính là lời kết tội, khẳng định chủ nghĩa tư bản là nguyên nhân gây ra chiến tranh tàn khốc. Ông mô tả quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời cũng là lý giải nguyên nhân vì đâu mà chủ nghĩa tư bản là nguồn gốc của chiến tranh, vì đâu mà còn chủ nghĩa tư bản thì còn chiến tranh. Rồi đến lượt nó, chiến tranh lại trở thành “cái mầm diệt vong ở trung tâm”, dẫn dắt chủ nghĩa tư bản vào “con đường tự sát”. Viết như thế tưởng như đòn đánh vỗ mặt, trực diện vào chính quyền thực dân Pháp. Phải chăng đó chính là lý do mà sau khi đăng kỳ cuối của bài Tư bổn chủ nghĩa, báo Kỳ lân chỉ kịp ra được đúng 1 số báo nữa thì bị nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa.
Thời kỳ thứ hai từ cuối năm 1932 sau khi Hải Triều ra tù, đến năm 1940, trước khi ông bị đưa đi giam lỏng ở Phong Điền. Đây là 8 năm hoạt động báo chí sôi nổi nhất của Hải Triều. Ông cộng tác với hàng loạt tờ báo công khai như: Tiếng Dân, Đông phương, Phụ nữ tân văn, Công luận, Đời mới, Tiểu thuyết thứ bảy, Tin văn, Trung Kỳ, Tiến bộ, Hồn trẻ tập mới, Mai, Nhành lúa, Kinh tế tân văn, Sông Hương tục bản, Dân tiến, Tao đàn. Trong số các báo mà Hải Triều cộng tác đăng bài có những báo do Đảng Cộng sản chủ trương như: Hồn trẻ tập mới (tuần báo, xuất bản ở Hà Nội, ra được 12 số từ tháng 6 đến tháng 8/1936, do Xứ ủy Bắc Kỳ chủ trương và chỉ đạo); Nhành lúa (xuất bản tại Huế, do chính Hải Triều làm Thư ký tòa soạn, bị cấm sau số 9, ngày 19/3/1937); Sông Hương tục bản (tuần báo, xuất bản ở Huế, do Xứ ủy Trung Kỳ mua lại của Phan Khôi song vẫn đề “Người sáng lập: Phan Khôi” để giữ thế hợp pháp, Phan Đăng Lưu trực tiếp chỉ đạo, số cuối - số 14, ra ngày 14/10/1937); Dân tiến (do Xứ ủy Trung Kỳ chủ trương, Phan Đăng Lưu chỉ đạo, Lưu Quý Kỳ làm Thư ký tòa soạn, ra được 5 số, số cuối ra ngày 12/12/1938). Có những thời gian, Hải Triều viết rất nhanh và liên tục. Trên tờ Đông phương, nhiều đợt 4-5 số báo liền có bài của ông. Tuần báo Đời mới chỉ ra được 4 số đã bị cấm, riêng Hải Triều có bài Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh đăng trên 2 số báo: số 1 (24/3/1935) và tiếp số 3 (07/4/1935).
Đề tài các bài viết của Hải Triều trong thời kỳ này khá rộng, bao gồm những vấn đề trong nước và quốc tế. Các bài viết của ông về những vấn đề, sự kiện quốc tế chủ yếu tập trung vào nửa đầu thời kỳ này. Trên tờ Đông phương đăng tải 23 bài viết của ông, trong đó có đến 20 bài về các vấn đề quốc tế, từ những sự kiện như: Hội nghị kinh tế thế giới, số 862 và 863 ngày 01 và 05/7/1933; Hiệp ước của bốn nước, số 871, ngày 09/8/1933, đến các vấn đề chính trị của các quốc gia, khu vực như: Cuộc liên minh chống với Nga Xô Viết, số 875, ngày 26/8/1933; Đệ nhị quốc tế sắp tan rã. Sự phân liệt trong Đảng Xã hội Pháp, số 885, ngày 30/9/1933; Nam Mỹ châu, một ngọn lửa của thế giới đại chiến lần thứ hai, số 886, ngày 04/10/1933; Cái vòng luẩn quẩn của kinh tế Mỹ bây giờ, số 893, ngày 01/11/1933, v.v… Việc tập trung vào đề tài quốc tế có thể là sự cam kết của Hải Triều với tòa soạn Đông phương, xong cũng có thể do phong trào đấu tranh cách mạng trong nước tạm thời lắng xuống sau cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh và sự khủng bố gắt gao của chính quyền thực dân Pháp khiến việc đề cập những vấn đề chính trị trong nước không thuận lợi.
Nửa sau của thời kỳ thứ hai, các bài viết của Hải Triều phần lớn tập trung vào các đề tài trong nước, trong đó nhiều nhất là những bài viết về các vấn đề học thuật, lý luận văn nghệ. Trong điều kiện tương đối cởi mở của những năm 1936-1939, với nền tảng trí tuệ và ngòi bút sắc sảo, phóng túng, ông tung hoành trên diễn đàn báo chí, công khai thể hiện và truyền bá các nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lê nin, những tư tưởng dân chủ, những quan điểm tiến bộ, tích cực về văn hóa, văn nghệ, đấu tranh phản bác những tư tưởng lạc hậu, phản động hoặc không có lợi cho cách mạng. Dù viết về vấn đề gì, ông đều đứng về phía cách mạng, phía nhân dân, ý thức đầy đủ về phẩm giá dân tộc và dựa vào phương pháp luận mác xít để phân tích, lý giải và đưa ra chính kiến rõ ràng.
Thời kỳ hoạt động báo chí thứ ba của Hải Triều từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công đến cuối đời, được đánh dấu khởi đầu với bài Trả lời một nhà tri thức – dịch và giới thiệu bức thư của văn hào Marsim Gorky trả lời một trí thức ở châu Âu, đăng trên số 2, tạp chí Tiên phong của Hội Văn hóa Cứu quốc (khoảng giữa tháng 11/1945). Trong thời kỳ này, ông chỉ cộng tác viết bài cho các báo, tạp chí của các tổ chức cách mạng như: các báo Sự thật, Thép mới; các tạp chí Tiên phong, Tìm hiểu, Ánh sáng. Trong vòng 2 năm 1949-1950, tờ tạp chí Tìm hiểu, cơ quan của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Liên khu IV có đến 17 số đăng tải các tác phẩm của Hải Triều. Sau năm 1950, có thể do điều kiện công tác, Hải Triều hầu như không tham gia viết bài cho các báo, tạp chí.
Những bài viết của Hải Triều trong thời kỳ này chủ yếu tập trung vào các vấn đề học thuật, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và phân tích, đánh giá, định hướng những vấn đề thời sự của cách mạng trong nước và quốc tế. Ngay từ cuối năm 1946, Hải Triều đã có bài Kinh tế học Các Mác – những hình thức xã hội sinh sản đăng trên tạp chí Ánh sáng, cơ quan của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Trung Bộ do chính ông là Tổng Biên tập. Rất tiếc, cho đến nay mới chỉ tìm thấy phần thứ nhất của tác phẩm viết về thời kỳ Cộng sản nguyên thủy trong nhận thức của kinh tế học Mác. Sau đó, ông có hàng loạt bài về chủ nghĩa Mác – Lênin như: Luật ảnh hưởng trở lại của tinh thần qua vật chất và tác động của con người trong quá trình hình thành và phát triển xã hội (tạp chí Tìm hiểu, số 1 và 2, tháng 3 và tháng 5/1949); Luật ảnh hưởng trở lại. Xây dựng một lý luận Mác xít cho cách mạng Việt Nam (tạp chí Tìm hiểu, số 3, tháng 8/1949); Sự suy tàn và phản động của triết học tư bản đế quốc sau chiến tranh và tinh thần sáng tạo và cách mạng của chủ nghĩa Mác (tạp chí Tìm hiểu, số 7, tháng 121949); Việt Nam tiền tuyến của mặt trận hòa bình dân chủ Đông Nam Á châu (tạp chí Tìm hiểu, số 9, tháng 2/1950); Vai trò “lãnh tụ” và “quần chúng” trong lịch sử (tạp chí Tìm hiểu, số 11, tháng 5 và tháng 6/1950), Nghiên cứu Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (tạp chí Tìm hiểu, số 12 và 15, năm 1950); v.v…
Các bài viết của Hải Triều đăng tải trên các báo, tạp chí thời kỳ thứ ba hầu hết đều là những bài nghị luận, luận văn tuyên truyền, có dung lượng tương đối lớn, nhằm phục vụ cho việc học tập, nâng cao nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên. Nội dung các bài báo đó được phát triển theo một kết cấu chặt chẽ với văn phong chính luận sắc sảo, thể hiện nền tảng tri thức uyên bác.
***
Xuất thân từ một gia đình trí thức, dòng dõi danh giá, nhưng Hải Triều đã chọn con đường sống đầy chông gai, gian khổ, vì lý tưởng cách mạng cao cả. Giống như nhiều nhà cách mạng đương thời, Hải Triều làm báo với tư cách một người chiến sĩ, sử dụng báo chí làm vũ khí để truyền bá tư tưởng dân chủ, tiến bộ, đấu tranh đấu tranh chống ngoại xâm, chống áp bức bóc lột, vì lý tưởng giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
nguon: http://baovannghe.com.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
© 2022 Bản quyền thuộc về Người làm báo Hưng Yên.
Người làm báo Hưng Yên